(vhds.baothanhhoa.vn) - Làng tôi, từ xa xưa có tên là vùng đất Bản Thủy. Về sau, được đổi tên thành xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) cho đến ngày nay. Hàng ngàn năm qua, dẫu bao biến cố thăng, trầm nhưng tất cả những người con sinh ra, lớn lên ở mảnh đất này vẫn luôn giữ được “báu vật” của làng mình. Đó là, giọng nói đặc trưng của... làng tôi - làng Bản Thủy.

Tin liên quan

Đọc nhiều

Ai về nghe giọng... làng tôi

Làng tôi, từ xa xưa có tên là vùng đất Bản Thủy. Về sau, được đổi tên thành xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) cho đến ngày nay. Hàng ngàn năm qua, dẫu bao biến cố thăng, trầm nhưng tất cả những người con sinh ra, lớn lên ở mảnh đất này vẫn luôn giữ được “báu vật” của làng mình. Đó là, giọng nói đặc trưng của... làng tôi - làng Bản Thủy.

Ngược dòng lịch sử

Dải đất Vĩnh Lộc trải dài, uốn lượn theo triền sông Mã bên phía bờ tả. Hơn 600 năm về trước, vùng đất này đã được Hồ Quý Ly chọn làm nơi xây dựng thành Tây Đô, lập ra Vương triều Hồ. Và, cũng chính mảnh đất này là nơi phát tích của chúa Trịnh, kéo dài ngôi vị hơn 240 năm...

Vùng đất Bản Thủy là nơi giáp với Di chỉ Văn hóa Đa Bút khoảng chừng 2 km đường chim bay. Với những kết quả các đợt khai quật di chỉ khảo cổ học núi Hến Đa Bút, Rú Hến Bản Thủy, khẳng định ở khu vực Núi Hến (nay thuộc địa phận làng Đoài, xã Vĩnh Thịnh) có cư dân nguyên thủy cư trú cách đây khoảng 7.000 năm (Theo sách Lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Thịnh trang 21). Cũng theo sách Lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Thịnh thì: “Việc những cư dân xã Phú Thịnh di cư về núi Hến lập nên Ngư Võng Phường. Qua truyền ngôn, thư tịch sắc phong cổ, cũng như các văn bản Hán Nôm ghi về chùa Hoa Long và một số tài liệu khác, có thể ước chừng Ngư Võng Phường ra đời vào giữa thế kỷ thứ XV... Từ khi Ngư Võng Phường có số dân cư đông đúc ở dọc sông Kinh Xuyên, thì ra đời tên làng Kinh Xuyên, sau gọi là Kênh Thủy, rồi đổi thành Bản Thủy”.

Giờ đây, theo các vị cao niên trong làng vẫn thường kể lại cho con cháu về “gốc tích” vùng đất quê mình, rằng khu vực này vốn là vùng nước mênh mông. Cá, tôm, cua, ốc,... đầy đồng, đất đai màu mỡ. Cũng bởi lẽ, thấy vùng nước mênh mông nên người ta gọi đây là đất Kênh Thủy, sau đó gọi là là Bản Thủy. Tuy gọi là làng, nhưng quê tôi giờ đây là một xã, có bốn làng, gồm: Đoài, Trung, Đông, Sanh với số dân gần chục ngàn người.

Điều đặc biệt nhất ở làng tôi, là có ngôn ngữ riêng. Tiếng mẹ đẻ được coi như “báu vật” của những thế hệ được sinh ra từ đây. Ngôn ngữ ấy, giọng nói ấy, vô cùng khác lạ so với bất kỳ ngôn ngữ các dân tộc khác, dù rằng người làng tôi đều là dân tộc Kinh. Khi mỗi người dân làng tôi cất giọng nói tiếng mẹ đẻ, thì chỉ những người cùng quê mới hiểu, vì cách phát âm có vô số từ vựng khác biệt hẳn với các vùng, miền khác ở xứ Thanh.

Cách phát âm về tên gọi nhiều đồ dùng, sự vật của ngôn ngữ làng tôi đều rất khác với tiếng phổ thông. Thí dụ: Tóc - gọi là tắc; mũi - (mủn); răng - (nanh); lưỡi - (lản); chân - (chò); vung nồi - (bàng xoong); cái nồi đất kho cá - (trách); nắp nồi đất kho cá - (phẳn); nia - (nâm cấm); gầu múc nước giếng - (đài mốc nác); gầu tát nước- (gọi là bẳn tát nác); vợ chồng - (cấy nhông) v.v...

Xin trích một đoạn hội thoại của người mẹ sai bảo đứa con gái: “Ớ té, chằn vô lày phẳn đặn trách cá lậy, không thiêng mọ đi đá, xoong đẩn lả vô cấy chá.”. Con gái phụng phịu vì mải chơi, nói lại: “Rầy rẩy cấy, té đẳng bắt con bà bịm”. Người mẹ liền quát nạt con: “Mi nhởn bưa bưa thôi chá. Hoọc không chìu hoọc, mằn không mằn, mẳn chi mi đi bắt bà bịm mải rứa? Mi không chằn vô lày phẳn đặn trách cá lậy, thiêng mọ đi, lày chi hốc?”.

Xin “dịch” theo tiếng phổ thông: Người mẹ sai bảo con gái: “Bé ơi, chạy vào lấy vung đậy nồi cá kho lại, kẻo chuột mò vào ăn mất đấy. Xong rồi gài củi vào bếp lửa cái nhé”. Đứa con gái đang mải chơi, nên phụng phịu nói lại: “Từ từ chút, con đang bắt con chuồn chuồn”. Người mẹ quát nạt con: “Mày chơi vừa thôi nhé. Học không chịu học, làm không làm, làm sao mày đi bắt chuồn chuồn mãi thế? Mày không chạy vào lấy vung đậy nồi cá lại, chuột ăn mất, lấy gì mà ăn?”.

Để hiểu được tiếng Vĩnh Thịnh là một thách thức không nhỏ đối với những cô gái ở nơi khác về đây làm dâu.

“Báu vật” của làng

Người dân làng tôi rất tự hào về ngôn ngữ riêng của quê mình. Từ người già, tới con trẻ đều có thể nói tiếng mẹ đẻ song song với tiếng phổ thông (tiếng Việt). Bởi vậy, những người đi trước luôn răn dạy lớp người đi sau, rằng; "chém cha không bằng pha tiếng". Đã là người sinh ra và lớn lên ở làng tôi, dù đi khắp nơi làm ăn, sinh sống cũng phải giữ được tiếng mẹ đẻ. Những người đi xa quê hương, nếu gặp người cùng làng, cùng xã ở bất kể nơi đâu, ngay lập tức đều nói chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, chứ không dùng tiếng phổ thông giao tiếp. Thậm chí, có người đi sang nước Pháp, nước Nga xa xôi, định cư mấy chục năm, khi về thăm quê vẫn nói “chuẩn” tiếng Bản Thủy. Người làng tôi chất phác, thật thà, nên khi gặp nhau giữa chốn thị thành đều kể những chuyện quê hương mình bằng tiếng mẹ đẻ, mà chẳng ngại ngùng hay sợ người “phố” chê bai.

Một điều đặc biệt nữa, người dân làng tôi cũng lấy vợ, lấy chồng ở nơi khác, nhưng dù người nơi khác có về làng ở rể, làm dâu, thì suốt đời họ vẫn không thể nào phát âm “chuẩn” được giọng làng tôi, tuy rằng họ hiểu được ngôn ngữ ấy. Và đương nhiên, khi những đứa trẻ có mẹ, hoặc bố là người làng tôi, được sinh ra ở làng, thì tất thảy đều nói được tiếng Bản Thủy. Tuy nhiên, khi bước vào tuổi đi học mầm non rồi tiểu học..., tất cả học sinh đều nói tiếng phổ thông. Nhưng khi ra khỏi lớp học, ngay lập tức, lũ trẻ lại trở về với giọng nói vốn có của mình. Đặc biệt, người dân làng tôi khi nói tiếng phổ thông, những từ có dấu “hỏi”, dấu “ngã” đều phân biệt và phát âm rất chuẩn xác, chứ không “nặng” tiếng xứ Thanh nói chung.

Trong nhiều năm qua, nhiều đoàn nghiên cứu của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, đã từng về tìm hiểu giọng nói của người dân làng tôi. Các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ đã ở nhiều ngày để ghi lại giọng nói, cách phát âm tiếng Kênh Thủy, Bản Thủy nhằm tìm hiểu nguồn gốc tiếng nói nơi đây. Tuy nhiên, đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được kết luận cuối cùng về nguồn gốc ngôn ngữ của làng Bản Thủy. Có giả thuyết cho rằng; tiếng nói, cách phát âm của người làng tôi do nguồn nước ở địa phương quyết định; hoặc do một bộ tộc người cổ đến đây cư trú từ hàng ngàn năm trước tạo nên. Cũng có giả thuyết cho rằng; tiếng nói của người dân làng tôi bắt nguồn từ tiếng Việt - Mường cổ; hoặc là nguồn gốc “Tận cùng tiếng Mường, khởi thủy tiếng Kinh, lẫn theo tiếng Hoa, tiếng Thái và cũng có thể trong đó có cả tiếng Chăm”(?!)... Tuy nhiên, tất cả, đó mới chỉ là những giả thuyết mà thôi!

Dẫu rằng, trong khi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đang tìm hiểu về nguồn gốc giọng nói, cách phát âm của người làng tôi, thì hơn 8.000 người dân ở bốn làng Đông, Đoài, Trung, Sanh và khoảng chừng hơn 2.000 người địa phương đang sống xa quê,hàng ngày vẫn sử dụng, gìn giữ tiếng Kênh Thủy, Bản Thủy của quê hương mình như một báu vật vốn có từ xa xưa đến bây giờ.

Thế Lượng


Thế Lượng

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]