(vhds.baothanhhoa.vn) - “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ” không chỉ là trong lời hát, mà ngay cả đời thực, biết bao người đã mơ ước gặp Bác Hồ để được ngắm Bác, được hiểu rằng, cuộc đời này vẫn có những vị lãnh tụ mà gần gũi và giản dị xiết bao. Chính bởi thế, được gặp Bác Hồ trong thời gian thật ngắn, thật xa, cũng đã là niềm tự hào và luôn hãnh diện.

Tin liên quan

Đọc nhiều

Gặp Bác Hồ là niềm may mắn và tự hào

“Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ” không chỉ là trong lời hát, mà ngay cả đời thực, biết bao người đã mơ ước gặp Bác Hồ để được ngắm Bác, được hiểu rằng, cuộc đời này vẫn có những vị lãnh tụ mà gần gũi và giản dị xiết bao. Chính bởi thế, được gặp Bác Hồ trong thời gian thật ngắn, thật xa, cũng đã là niềm tự hào và luôn hãnh diện.

Tôi tự hào vì được gặp Bác

Sinh năm 1932, đến nay đã ở tuổi gần 90, nhưng ông Hoàng Tiến Lực (Hoằng Lương, Hoằng Hóa) có thể kể đi kể lại mà vẫn dạt dào cảm xúc về lần gặp Bác Hồ.

Sau khi được cử đi học lái tàu phóng lôi ở Trung Quốc trở về, ông về làm thuyền trưởng tàu tiễu T161 (phân đội 5), hoạt động tại vùng Cảng Cồn Cỏ (Quảng Bình). Sang năm 1961, ông được cử làm phân đội phó rồi lên phân đội trưởng phân đội 1, trực tiếp lái chiếc tàu phóng lôi T313 hoạt động tại Cảng Vạn Hoa (Quảng Ninh). Tại đây, cơ duyên đã cho ông được gặp Bác Hồ. Ông kể lại: “Đêm ngày 12/11/1962, chúng tôi nhận được thông báo sáng ngày mai sẽ có đoàn khách cấp cao tới thăm. Khoảng 8h sáng ngày 13/11, một chiếc trực thăng từ từ hạ xuống sân vận động của đảo. Thật không thể tưởng tượng được lúc đó chúng tôi ngạc nhiên thế nào. Bác Hồ, người mà bấy lâu nay tôi chỉ được nghe tiếng Bác trên radio, nhìn Bác qua những trang báo. Ấy vậy mà nay Bác thật giản dị trong bộ áo nâu, đi đôi dép cao su từ cửa bước ra.

Ông Lực kể lại: “Sau khi bước xuống khỏi trực thăng, Bác đưa tay chào mọi người rồi bất chợt hỏi đồng chí tiểu đoàn trưởng rằng có phải nơi có khói bốc lên ở dãy nhà tranh là bếp nấu ăn không. Khi biết đó chính là nơi nấu ăn cho bộ đội, Bác đã rời khỏi đoàn người đang nghiêm trang xếp hàng chào đón mà đi về phía nhà bếp rồi thăm hỏi tình hình sức khỏe, động viên các chị nuôi quân. Bác đi thăm khẩu phần ăn, tình hình vệ sinh nhà ăn, nhà bếp. Bác dặn dò anh chị em chịu khó làm việc, bảo đảm cho bộ đội ăn ngon, ăn sạch, ăn đủ để có đủ sức khỏe học tập và chiến đấu. Thăm nhà bếp xong, Bác quay lại vẫn thấy bộ đội tập hợp chỉnh tề, Bác nói với đồng chí tiểu đội trưởng cho anh em về nghỉ ngơi chứ Bác không cần đón tiếp trịnh trọng như thế. Tất cả anh em bộ đội được giải tán nhưng không ai chịu rời vị trí mà cứ đứng nhìn Bác hồi lâu. Chúng tôi lúc ấy chỉ muốn nhìn Bác thật lâu, thật kỹ”.

Giọng ông Lực thật tự hào: Cả đời cũng không thể quên được giây phút ấy, được nhìn thấy Bác bằng da bằng thịt đã là niềm vinh dự rồi thế mà còn là người được chọn làm cơm và mang cơm cho Bác. “Bữa ăn của Bác rất đơn giản, chỉ là những quả cà muối, mắm tép, một lát cá kho. Chúng tôi mang cơm đến cho Bác chỉ muốn ở lại với Bác mãi nhưng rồi để cho Bác ăn cơm và nghỉ ngơi nên mọi người đành phải ra về.

Người chiến sĩ hải quân Hoàng Tiến Lực năm nào, nay đã ở tuổi gần 90.

Những hình ảnh về Bác dù đã qua rất lâu, gần 60 năm, nhưng ông chia sẻ: Tôi vẫn thấy tiếng Bác bên tai. Bác gần gũi lắm, dù chỉ được gặp Bác trong mấy tiếng, nhưng những bài học, những lời dặn dò của Người luôn hằn sâu trong ký ức tôi. “Khoảng 10h, tất cả anh em trong đơn vị được lệnh tập trung để nghe Bác nói chuyện. Sau khi thăm hỏi tình hình sức khỏe anh em đơn vị, Bác rút trong túi áo ra một chiếc đồng hồ quả quýt rồi hỏi anh em rằng trên mặt chiếc đồng hồ có những gì. Tất cả mọi người trả lời với Bác là có chữ số và kim. Bác lại hỏi tiếp là chiếc kim chạy hay đứng, chữ số chạy hay đứng. Nếu giờ chữ số nói muốn chạy, còn chiếc kim nói muốn đứng thì có được không?. Rồi Bác liên hệ: Một con tàu, một đơn vị cũng vậy, có nhiều ngành nghề khác nhau, có người làm việc dưới nước, có người làm việc trên bờ. Nếu người trên tàu chán và nói muốn lên bờ còn người trên bờ nói muốn xuống tàu. Như vậy, đơn vị có ổn định không, có còn sức mạnh để làm tròn nhiệm vụ không? Vì vậy các cô chú phải yên tâm công tác. Nhiệm vụ nào cũng quan trọng và vẻ vang cả...”.

Đến khi tiễn Bác ra máy bay, ai cũng quyến luyến đi gần Bác, một đồng chí bộ đội đi sát phía sau đã vô tình dẫm vào dép Bác khiến chiếc dép bị đứt dây. Bác tiến lại sát tường, ngồi xuống dùng hòn đá sửa lại dép.

“Đồng chí trung úy nhanh chóng chạy lại sửa dép cho Bác. Thấy đôi dép đã đứt nhiều chỗ và quá cũ, đồng chí đã ngỏ ý muốn đổi cho Bác đôi giày mới và xin đôi dép của Bác làm kỷ niệm. Bác bảo: “Dép này Bác đi đã lâu lắm rồi, tiện lắm đấy, trời nắng, trời mưa, trèo đèo, lội suối đều dùng được. Hỏng thì lại sửa, còn sửa được thì còn dùng được. Phải tiết kiệm chứ...”.

Sau lần gặp ấy, người lính hải quân Hoàng Tiến Lực không còn lần nào được vinh dự gặp Bác nữa. Nỗi đau lớn nhất lúc ấy chính là nhận được tin Bác mất. Ông Lực đã có mặt trong hàng binh của lực lượng hải quân tham dự lễ tang Bác Hồ. Người đã nằm xuống và bao con tim đau đớn không nguôi.

Sau nhiều năm cống hiến cho cách mạng, cho lực lượng hải quân, năm 1984, ông trở về quê nhà Hoằng Lương và tham gia các hoạt động của xã như giữ chức Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh xã, Ủy viên UB kiểm tra Đảng ủy xã... Giờ đây, da ông đã nhăn nheo, sức khỏe kém nhiều rồi, nhưng kể về Bác giọng ông vẫn vang vang dõng dạc. Chính cuộc gặp ngắn ngủi với Bác Hồ năm nao là động lực và niềm tin để cả cuộc đời ông sống và cống hiến cho quê hương, đất nước.

Báu vật của cuộc đời tôi

Đó là vào một đêm giữa tháng 7 năm 1960, Bác cùng đồng chí cận vệ bí mật vềThanh Hóa thăm đồng bào và nghỉ dưỡng tại Sầm Sơn. Khi đặt chân đến Sầm Sơn, Bác không nghỉ ở nhà khách Công đoàn mà lên thẳng núi Trường Lệ, nơi có đền Cô Tiên.

Theo các cụ cao niên kể lại thì tối hôm đó, có một ông cụ râu tóc bạc phơ, ăn mặc giản dị lên núi Trường Lệ, sau đó vào thăm đền Cô Tiên. Sáng hôm sau, ông cụ dậy sớm, trong bộ quần áo cộc của một ngư dân rồi đi men xuống núi ngắm cảnh, và ghé thăm các gia đình ở chân núi thuộc thôn Vinh Sơn, xã Quảng Vinh, huyện Quảng Xương (nay là phường Trường Sơn, TP Sầm Sơn). Hầu hết các gia đình ra khơi chưa trở về, chỉ có duy nhất một gia đình vừa về tới nhà còn đang ngồi hóng mát ở chiếc chõng tre. Gia đình mời ông cụ lên chiếc chõng tre ngồi nhưng ông cụ từ chối và ngồi ngay lên tảng đá bên cây khế.

Thấy một cháu bé đang nằm trên chõng tre khóc ngặt, ông cụ lại gần bế lên cưng nựng, rồi hỏi thăm đời sống của ngư dân, của xã viên. Ngư dân trả lời ngay: “Cảm ơn cụ. Nhờ ơn Đảng, ơn Bác Hồ, đời sống xã viên chúng tôi sung sướng lắm ạ!”. Đó là gia đình ông Lê Viết Lược, thực sự lúc đó, tháng 7/1960, chẳng ai nghĩ mình được nói chuyện với Bác Hồ - vị cha già của dân tộc.

Bác Hồ bế trên tay cậu bé Lê Viết Quý.

Rời gia đình ông Lược, Bác cùng mọi người đi xuống bãi biển. Một không khí lao động tấp nập diễn ra. Thấy mấy cụ già đang khom lưng kéo lưới vất vả, Bác vào cùng, đứng trước một cụ già cũng cật lực kéo sợi dây. Cụ già thấy một ông cụ lạ và mấy người cùng kéo lưới giúp thì mừng vui, vừa làm vừa trò chuyện rôm rả. Mồ hôi nhễ nhại, Bác bỏ mũ, cởi cả áo, cả khăn lộ hết bộ râu, vẫn không ai nhận ra người cùng kéo lưới là Bác Hồ.

Không riêng gì cụ Lược, những người may mắn và vinh dự được gặp Hồ Chủ tịch năm đó giờ đã thiên cổ. Chỉ còn lại vài ba người trong đó có cậu bé năm xưa khóc ngặt bên chõng tre, được Bác Hồ bế dỗ dành cưng nựng đó là ông Lê Viết Quý. Ông Quý sinh năm 1959, là con trai của cụ Lê Viết Lược, người đã được trò chuyện cùng Bác tại nhà năm xưa. Khi ấy, cậu bé Quý mới chưa đầy 2 tuổi.

Giờ đây, ngoài 60 tuổi, dù sức khỏe không tốt, nhưng ông Quý vẫn cho rằng: Chính nhờ cuộc gặp ấy mà bao năm gắn bó với biển, ông vẫn luôn cố gắng là người sống có ích, sống vì mọi người. Rồi ông chỉ cho chúng tôi cái chõng đã bị mối mọt và căn nhà kè Bác Hồ đặt chân vào. Gia đình ông vẫn giữ nguyên cái nếp nhà, kèo cột, chỉ có điều sau gần 60 năm, đã phải thay bằng mái ngói. Ông chia sẻ thêm: Bức ảnh tôi vinh dự được Bác Hồ bế trên tay ngày ấy được chính quyền địa phương sưu tầm tại bảo tàng về, tôi luôn gìn giữ và xem như báu vật cuộc đời mình. Bức ảnh đen trắng ấy là hành trang để cuộc sống của ông có ý nghĩa hơn và là động lực để ông luôn cố gắng dạy dỗ con cháu mình cần sống có đạo lý, xứng đáng là con cháu Bác Hồ.

Phùng Thị Quyên


Phùng Thị Quyên

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]