(vhds.baothanhhoa.vn) - Thanh Hóa là một vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa thật đáng tự hào. Vì vậy, mà không phải ngẫu nhiên, Pierre Paspuer - một quan chức cao cấp của chính quyền thực dân Pháp với danh nghĩa là Khâm xứ Trung Kỳ đã có sự khâm phục và ngợi ca hết lời đối với vùng đất Thanh Hóa.

Tin liên quan

Đọc nhiều

Xứ Thanh - Dấu ấn lịch sử văn hóa trong dòng chảy lịch sử dân tộc

Thanh Hóa là một vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa thật đáng tự hào. Vì vậy, mà không phải ngẫu nhiên, Pierre Paspuer - một quan chức cao cấp của chính quyền thực dân Pháp với danh nghĩa là Khâm xứ Trung Kỳ đã có sự khâm phục và ngợi ca hết lời đối với vùng đất Thanh Hóa.

Ông nói: "Thanh Hóa níu giữ và quyến rũ như một vùng có nhiều kỷ niệm về quá khứ giàu truyền thuyết và vĩ đại. Thanh Hóa không phải là một đơn vị hành chính bình thường, đây là cả một xứ. Cũng muôn hình muôn vẻ như xứ Bắc Kỳ, mà còn như là một hình ảnh của Bắc Kỳ thu nhỏ, nó có châu thổ trù phú và phì nhiêu, có vùng trung du cây cỏ bạt ngàn lượn sóng, vùng cao lầm lỳ mà đại ngàn um tùm bao phủ"... "Vào những giờ phút thử thách, đối với nước An Nam; Thanh Hóa còn hơn cả Hà Nội; đây là một thánh đường bảo tồn mọi kỳ vọng của chủng tộc. Từ miền đất đã được chọn ấy, để bảo vệ nơi an nghỉ của tổ tiên và bao đời vua chúa, đã xuất hiện những anh hùng lừng lẫy và tài ba nhất của lịch sử" (H.LeBreton, Thanh Hóa đẹp tươi, XB năm 1924, bản dịch đánh máy, tài liệu tham khảo của Thư viện Thanh Hóa (4/2010).

Còn ở một cuốn sách khác với tên gọi “Tỉnh Thanh Hóa” (Laprovincede Thanh Hoa), xuất bản năm 1924, tác giả H.LeBreton sau quá trình nghiên cứu, sưu tầm các nguồn tài liệu thư tịch của cả Việt Nam và Trung Quốc, cộng với sự khảo sát, điền dã thực tế đã giới thiệu một cách khái quát và hệ thống về đất - nước - con người Thanh Hóa một cách xúc tích và rất trân trọng. Ông viết: “Thanh Hóa - sân khấu của những bản anh hùng ca lớn của Đại Việt”. Và trên những trang viết của mình, H.LeBreton có sự nhìn nhận, đánh giá rất cao và khách quan về vai trò đặc biệt của Thanh Hóa trong quá trình chống xâm lược để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ cho quốc gia Đại Việt mà cho đến nay, những trang viết ấy vẫn được xem là tài liệu tham khảo có giá trị.

Nhận xét của học giả H.LeBreton về Thanh Hóa quả không sai. Trong trường lịch sử, vùng đất Cửu Chân - Châu Ái - Xứ Thanh lúc nào cũng là vùng đất trọng yếu gắn bó mật thiết với sự ra đời, tồn vong và phát triển của dân tộc, đồng thời liên tục gánh những trọng trách nặng nề khi Tổ quốc lâm nguy. Ngay từ thời nước Âu Lạc bị xâm lược, khi mất Cổ Loa, Thục Phán An Dương Vương còn chạy về vùng đất Cửu Chân (thuộc Nam Thanh, Bắc Nghệ bây giờ) để tổ chức chiến đấu trước khi trẫm mình đáy biển. Rồi đến thời Bắc thuộc, vào năm 40 Scn, khi Hai Bà Trưng bị Mã Viện đánh bại ở miền sông Hát (Vĩnh Phúc) thì tại Cửu Chân - xứ Thanh, lão tướng Đô Dương và Cừ Súy Chu Bá vẫn chiến đấu kháng cự kiên cường, làm đội quân xâm lược của Mã Viện cũng phải trả một giá đắt khi xâm chiếm nước ta. Tiếp đó, vào năm 248 Scn, người con gái anh hùng họ Triệu (quê huyện Quân An, nay thuộc địa bàn huyện Yên Định) đã đứng dậy tập hợp nghĩa quân ở căn cứ Ngàn Nưa để chống lại nhà Đông Ngô, làm “Toàn Châu Giao náo động”. 500 năm sau đó, có được nhà nước Vạn Xuân, Nam Đế Lý Bí cũng phải chọn Cửu Chân - Châu Ái - xứ Thanh làm căn cứ chống giặc. Và trong khoảng 50 năm của thế kỷ X - thế kỷ bản lề của sự phục hưng văn hóa dân tộc, từ Dương Đình Nghệ đến Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn đều lấy xứ Thanh làm căn cứ và chỗ dựa chủ yếu để đánh đuổi bọn xâm lược phương Bắc, giành và giữ nền độc lập, tự chủ dài lâu cho dân tộc. Từ đó, suốt ngàn năm tự chủ, vai trò của xứ Thanh lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh.

Vào năm 1009, nhà Tiền Lê rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, và nhất là sau khi vua Lê Long Đỉnh mất thì đất nước càng thêm rối loạn. Trước tình hình đó, một người con của đất Châu Ái - xứ Thanh là quan Tri hậu Đào Cam Mộc đã phối hợp cùng nhà sư Vạn Hạnh và lực lượng trung thành cùng chí hướng suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, mở ra vương triều Lý kéo dài trong 215 năm (1010 - 1225) - một vương triều cường thịnh và rực rỡ trong thời kỳ phong kiến. Và dưới triều Lý, thấy rõ vai trò trọng yếu của vùng đất xứ Thanh, các vua Lý, nhất là từ đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) trở đi đã có nhiều quan tâm, chú ý đến việc biến xứ Thanh - một vùng đất biên viễn xa kinh thành thành vùng đất phên dậu ổn định và vững mạnh - một chỗ dựa tin cậy của quốc gia Đại Việt. Và trong hơn hai thế kỷ dưới triều Lý, xứ Thanh đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét về lịch sử, kinh tế và văn hóa xã hội nói chung, mà cho đến nay, những di sản còn lại vẫn là những di sản vô giá làm bất kỳ ai cũng đều phải ngưỡng mộ, kính phục. Vì vậy mà nhiều nước lân bang và thương đoàn gần, xa ngày ấy mỗi lần đến xứ Thanh, được tận mắt nhìn thấy những chùa chiền có qui mô bề thế và trấn lỵ Duy Tinh sầm uất như Vương Xá Thành của Ấn Độ thời trung cổ mà bia Linh Xứng và bia chùa Sùng Nghiêm đã ghi chép đều phải “quỳ gối, bái phục” (từ dùng ở văn bia chùa Linh Xứng).

Trong hơn hai thế kỷ góp phần đáng kể giúp nhà Lý giữ vững nền độc lập tự chủ cho dân tộc, xứ Thanh càng trở nên quan trọng trong những thời kỳ lịch sử tiếp theo.

Ở thời Trần (1225 - 1400), khi quân Nguyên Mông ồ ạt tấn công xâm lược nước ta, vùng đất phên dậu xứ Thanh đã trở thành cứu tinh cho dân tộc. Lịch sử còn ghi nhận, vào năm 1285, trong giờ phút lâm nguy nhất, khi mà giặc Nguyên Mông chiếm được hầu hết đất Bắc và Kinh thành Thăng Long thì Trần Hưng Đạo đã quyết định cho đại quân và hai vua Trần rút nhanh về vùng hậu cứ xứ Thanh cố thủ để bảo tồn và củng cố lực lượng, rồi từ đây mở cuộc đại phản công ra Bắc đánh tan quân giặc Thát. Từ hoàn cảnh và diễn biến lịch sử này mà vị vua anh hùng Trần Nhân Tông mới sáng tác ra câu thơ bất hủ: “Cối kê cựu sự quân tu kỵ, Hoan Ái do tồn thập vạn binh”. Ngay cả lúc một đạo quân lớn của giặc Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy từ phía Nam tiến ra Thanh Hóa đã bị chặn đánh một cách quyết liệt bởi lực lượng dân binh và quân đội nhà Trần.

Đền thờ Lê Hoàn. (Ảnh: Bùi Trang)

Đến thế kỷ XV, vào năm 1418, với mục đích đánh đổ ách thống trị của xâm lược Minh, từ rừng núi Lam Sơn, Bình định vương Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa, tập hợp hào kiệt và nghĩa sĩ bốn phương, "nằm gai nếm mật", chiến đấu liên tục suốt 10 năm để rồi quét sạch quân Minh ra khỏi cõi bờ để "rửa sạch tanh nhơ", "mở nền thái bình muôn thuở cho dân tộc". Sau một thế kỷ trị vì đến năm 1527, ngai vàng của nhà Lê Sơ đã bị nhà Mạc chiếm cứ. Từ đây, họ Nguyễn (đứng đầu là Nguyễn Kim) và họ Trịnh (bắt đầu là Trịnh Kiểm) người xứ Thanh đã lấy xứ Thanh tập hợp lực lượng để mở cuộc trung hưng lại nhà Lê. Và cục diện Nam - Bắc triều đã diễn ra một cách khốc liệt trong ngót nửa thế kỷ. Và Vạn Lại - Yên Trường của xứ Thanh đã trở thành kinh đô kháng chiến của chính quyền Nam Triều mà thực chất là của nhà Lê - Trịnh. Khi nhà Lê Trịnh đánh dẹp được nhà Mạc lên tận vùng biên giới phía Bắc và đưa giang sơn Đại Việt về một mối thì xứ Thanh vẫn tiếp tục được xem là vùng đất căn bản được triều đình ban phát khá nhiều đặc ân so với các vùng đất khác. Và cũng từ đây, ngoài vua - chúa là người gốc xứ Thanh, quan chức, binh lính xứ Thanh (và cả xứ Nghệ nữa) ở Thăng Long kinh kỳ vẫn chiếm đa số so với người nơi khác. Vì vậy, mà từ đó mới có câu "Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần" là thế chăng. Và qua tài liệu điều tra dân tộc học về nguồn gốc dân cư, dòng họ ở Hà Nội thì trong một số bài viết và cuộc nói chuyện, cố Giáo sư Trần Quốc Vượng đã từng có nhận xét thật dí dỏm mà cũng đúng vô cùng rằng "Thăng Long kinh đô xưa thực chất là khu kinh tế mới của người Thanh - Nghệ...". Cho đến nay, khi xem các bản phả hệ của Hà Nội thu thập, nhiều bản đã nói rõ về tổ họ, tổ nghề ra lập nghiệp ở Thăng Long - Hà Nội đều có nguồn gốc là người Thanh - Nghệ,...

Tại Thăng Long kinh kỳ, chính quyền vua Lê - chúa Trịnh vẫn tồn tại dai dẳng suốt từ năm 1593 đến tận năm 1788 - khi nhà Tây Sơn thay thế (nếu tính ra cũng được 195 năm. Trong 195 năm ấy, chính quyền Lê Trịnh dẫu có những hạn chế (như việc để xảy ra cuộc chiến giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài khá là thảm khốc), nhưng tựu trung vẫn có công giữ yên bờ cõi và giữ được sự hòa hiếu với các quốc gia láng giềng để đất nước có điều kiện tiếp tục phát triển. Và trong cuộc đối đầu với hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược hồi cuối thế kỷ XVIII, vai trò hậu cứ, phên dậu của xứ Thanh lại càng trở nên quan trọng, bởi từ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn của xứ Thanh, Quang Trung đã dốc lực lượng, mở cuộc đại phản công thần tốc ra Thăng Long đánh tan 20 vạn quân Thanh để bọn xâm lược biết rằng: "Sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ" (nước Nam anh hùng là có chủ - lời tuyên bố của Quang Trung tại vùng đất Thọ Hạc, xứ Thanh trước khi lên đường ra Thăng Long đánh dẹp quân Thanh).

Thành Nhà Hồ - Kinh đô của đất nước một thời.

Rồi trong dòng chảy lịch sử của đất nước, của thế kỷ XVIII-XIX, họ Nguyễn gốc xứ Thanh (từng có công trấn giữ và mở rộng đất phương Nam từ gần một thế kỷ trước), từ năm 1802 đã chính thức thay thế nhà Tây Sơn, lập ra vương triều Nguyễn, kéo dài trong 143 năm (từ 1802 - 1945). Và trong quá trình trị vì, nhà Nguyễn gốc xứ Thanh đã có công lao khôi phục thống nhất nước Việt Nam (mà lúc đó gọi là nước Đại Nam) thành một dải từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau (như hiện nay vậy). Trong công cuộc mở rộng đất phương Nam và thống nhất quốc gia ở thời kỳ lịch sử này, vai trò đóng góp của người xứ Thanh là rất quan trọng và rất đáng được ghi nhận. Cũng vì thế mà nhà Nguyễn trong 143 năm tồn tại đã dành cho đất và người xứ Thanh (nhất là người Quý hương Gia Miêu, Hà Trung) những đặc ân hơn là nơi khác.

Đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam thì ở xứ Thanh, ngay từ đầu, ngọn cờ Cần Vương chống Pháp đã được phất lên rộng khắp. Các căn cứ Ba Đình, Mã Cao, Hùng Lĩnh, Điền Lư, Trịnh Vạn,... lần lượt ra đời chống xâm lược, làm chấn động cả nước Pháp. Và đến khi thực dân Pháp chiếm cứ được Thanh Hóa và đặt ách cai trị lên cả nước Việt Nam, nhiều học giả người Pháp sau khi nghiên cứu, tìm hiểu về đất nước này đều có chung nhận xét rằng: "Thanh Hóa là sân khấu của những bản anh hùng ca vĩ đại của nước An Nam" (tức Việt Nam). Đây là một nhận xét có tính chất hình ảnh song lại đúng vô cùng. Điều đó còn được chứng minh từ thực tiễn của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng ta lãnh đạo mà điển hình là trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp (1946 - 1954), xứ Thanh trở thành hậu phương lớn đáng tin cậy của cả nước. Và trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, với việc đóng góp sức người, sức của một cách cao nhất cho tiền tuyến, xứ Thanh đã cùng cả nước làm nên "một Điện Biên chấn động địa cầu" và vì thế mà Bác Hồ mới nói: "Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó".

Tiếp đến là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xứ Thanh vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ hậu phương, vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Trong cuộc chiến với không lực Hoa Kỳ, Hàm Rồng và chiếc cầu sắt bắc qua sông Mã đã trở thành biểu tượng anh hùng, bất khuất của đất nước và con người Việt Nam cùng với những tên tuổi sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng khác như Nam Ngạn, Bến Ghép, Bò Lăn, Đảo Mê, Lạch Trường, Pha Ú Hò, rồi lão quân Hoằng Trường, gái Hoa Lộc,... đã làm cho cả xứ Thanh, đất Việt đều phải rất tự hào, hãnh diện.

Như vậy, suốt chiều dài lịch sử, ở tất cả mọi thời đại và mọi miền đất nước, từ Bạch Đằng, Chi Lăng, Hàm Tử, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Tây Nguyên, Đà Nẵng đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, người xứ Thanh đều có mặt để đóng góp những chiến công lẫy lừng cho dân tộc. Các vị anh hùng từ Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Hoàn, Lê Lợi, Tống Duy Tân đến Lê Đình Chinh, Nguyễn Bá Ngọc và biết bao anh hùng khác cùng nhân dân cứ thế nối tiếp nhau làm rạng rỡ cho đất nước, quê hương.

Khu di tích Quốc gia đặc biệt đền Bà Triệu. (Ảnh: Hữu Ngôn)

Và cho đến nay, khi cả nước đang có sự chuyển động, bứt phá mạnh mẽ trong công cuộc hội nhập, phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xứ Thanh đã và đang ra sức phấn đấu vươn lên thành một tỉnh giàu mạnh ở khu vực Bắc miền Trung để xứng danh với vùng đất giàu truyền thống lịch sử anh hùng.

Như vậy, vai trò to lớn trong tiến trình lịch sử dân tộc đã tạo ra cho xứ Thanh một vị thế đặc biệt. Đó chính là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất đến việc hình thành sắc thái và tính cách của người xứ Thanh.

Không những thế, xứ Thanh của văn hóa núi Đọ, văn hóa Đông Sơn, nơi từng có Bà Triệu cưỡi voi phá giặc, có Lê Lợi tụ nghĩa bình Ngô, đến Ba Đình, Hàm Rồng bất tử lại chính là xứ sở quê hương của một nền văn hiến phong phú và đa dạng. Nơi đây còn là vùng đất căn bản sản sinh ra 4 dòng vua (Tiền Lê, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn) và 2 dòng chúa (Trịnh và Nguyễn) đã từng thống lĩnh, trị vì quốc gia, nước Việt với thời gian tổng cộng hơn 5 thế kỷ. Trên đất căn bản và đất phên dậu xứ Thanh, trong thời buổi giặc dã, loạn lạc đe dọa đến sự an nguy của đất nước, kinh đô của nước Đại Ngu do Hồ Quy Ly cho xây dựng tại Tây Giai dẫu chỉ tồn tại được trong 7 năm (1400 - 1407) nhưng đã chứng kiến sự ra đời của nhiều chính sách cải cách tiến bộ, đồng thời đã để lại cho hậu thế hôm nay một tòa thành đá vĩ đại - đó là Thành Nhà Hồ - một di sản văn hóa thế giới. Tiếp đó, ở nửa cuối thế kỷ XVI, kinh đô kháng chiến của nhà Lê - Trịnh ra đời và tồn tại để làm nhiệm vụ trung hưng lại nhà Lê, đưa giang sơn về một mối. Tại đây, 7 khóa thi đại khoa đã được tổ chức trong cuộc chiến khốc liệt giữa Nam Triều và Bắc Triều. Và trong 48 năm tồn tại, kinh đô kháng chiến này cũng sản sinh ra hàng loạt tướng văn, tướng võ, mà nổi tiếng hơn cả chính là vị Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan và văn thần Nguyễn Bính - người đã lập hàng trăm thần tích mà đến nay vẫn còn lưu giữ được.

Trong suốt ngàn năm phong kiến (từ Lý - Trần - Lê đến Nguyễn), xứ Thanh đã có 204 người đỗ Tiến sĩ (trong đó có 5 Trạng nguyên và trên một chục Thám hoa, Bảng nhãn) cùng 1.465 người đỗ cử nhân, hương cống. Với số liệu thống kê này, xứ Thanh cũng xứng danh là vùng đất có truyền thống học hành, khoa cử (và là một trong 5 tỉnh có số người học hành đỗ đạt nhiều nhất trong cả nước). Và trong tỉnh có gần hai chục làng được gọi là làng khoa bảng mà phần lớn các huyện đồng bằng đều có (nhưng huyện có nhiều nhà khoa bảng hơn cả vẫn là huyện Hoằng Hóa).

Trên thực tiễn lịch sử, hàng trăm, hàng ngàn văn tướng, võ tướng người xứ Thanh đã có rất nhiều người được sử sách cũ ghi chép và ngợi ca đậm nét. Nhiều người đã trở thành danh nhân, thánh nhân của xứ Thanh, nước Việt.

Trên đất nước ngàn năm này, khối lượng di sản văn hóa (gồm vật thể và phi vật thể) để lại cho hậu thế chúng ta thật hết sức phong phú và đa dạng. Theo số liệu thống kê gần đây (2015) thì cả xứ Thanh vẫn còn hiện hữu hơn 4.000 di tích lịch sử - văn hóa và kiến trúc nghệ thuật ở mức độ khác nhau, trong đó có 1 di tích được công nhận là di sản văn hóa thế giới (đó là Thành Nhà Hồ). Về phi vật thể, xứ Thanh còn là quê hương của thiên sử thi "Đẻ đất đẻ nước", của các truyện thơ dài (như Khăm Panh, Nàng Nga Hai Mối, Út Lót Hồ Liêu,...), hay văn xuôi (như hò sông Mã, hát múa Đông Anh, hay trò Chiềng, trò Xuân Phả và Vật Bộc, rối Si, rồi Pồôn Pôông, Khua Luống cùng cả kho tàng - tục ngữ, ca dao, hò vè),... Tất cả đều đã và đang được khai thác, bảo tồn để phát huy rộng rãi. Còn về làng nghề thì nổi tiếng nhất là nghề đục đá ở làng Nhồi, nghề đúc đồng ở Trà Đông, nghề rèn ở Tất Tác, nghề Mộc ở Đạt Tài, nghề dệt lụa ở Hồng Đô, nghề gốm ở Lò Chum - Bến Ngự, nghề dệt chiếu ở Nga Sơn, nghề đan lát ở làng quê nào cũng có (nhưng nổi tiếng là nghề đan cót ở làng Giàng, nghề đan bồ ở Bất Căng, nghề đan thúng mủng, dần sàng ở Quảng Xương)... Nhiều mặt hàng thủ công như chum vại, đồ đồng, đồ đá, đồ gỗ, chiếu cói, tơ lụa của xứ Thanh từng có mặt ở đất kinh kỳ Thăng Long, Huế và nhiều nơi trong cả nước vì rất được người tiêu dùng ưa chuộng.

Về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng thì hầu như ở Việt Nam có loại tôn giáo, tín ngưỡng nào thì xứ Thanh cũng đều có, thậm chí nơi đây còn là địa bàn có sự giao thoa, du nhập của nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng từcác khu vực và đất nước láng giềng. Tuy nhiên, có một điều nổi bật là ở xứ Thanh, tín ngưỡng thờ mẫu Liễu Hạnh và nội đạo tràng (tức đạo Đông) mới thật sự điển hình. Nếu như việc thờ mẫu Liễu Hạnh có gốc gác ở Phủ Dầy (Nam Định) nhưng khi lan tới xứ Thanh mới phát triển thành một thánh đường của đạo Mẫu của cả Bắc Kỳ và Bắc Trung bộ và từ thánh đường là Sòng Sơn, đạo mẫu Liễu Hạnh phát triển rộng khắp trong cả tỉnh mà cho đến nay, tín ngưỡng thờ mẫu này vẫn thu hút lực lượng "con nhang, đệ tử" đến thờ cúng đông đảo nhất so với các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác. Còn Nội đạo tràng (tức Đạo Đông hay còn gọi là đạo phù thủy - một biến tướng theo phái pháp thuật của đạo giáo Trung Hoa) ra đời ở làng An Đông - Mậu Xương (Quảng Xương) cũng từng đối đầu với đạo mẫu Liễu Hạnh, nhưng rốt cuộc cả hai loại hình tín ngưỡng thần tiên và phủ thủy này lại hòa hợp cùng Phật giáo để đồng hành tiếp tục trên lĩnh vực tâm linh...

Phạm Trường Xuân


Phạm Trường Xuân

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]