(vhds.baothanhhoa.vn) - Ngày ấy tại ‘Thủ đô gió ngàn’ Đảng và Bác Hồ tập trung cao nhất để lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn.

Tin liên quan

Đọc nhiều

...‘Nhà thơ cũng phải biết xung phong’

Ngày ấy tại ‘Thủ đô gió ngàn’ Đảng và Bác Hồ tập trung cao nhất để lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn.

Cũng tại nơi ấy, vào ngày mùng 5/9/1950, một phiên tòa đặc biệt gây chấn động dư luận xã hội là vụ án Trần Dụ Châu, nguyên Đại tá, Giám đốc Nha Quân nhu thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là vụ án điển hình chống tham nhũng giữa lúc cuộc kháng chiến ở đỉnh cao.

Vụ án được phanh phui trước tiên lại là từ một bức thư (thay cho đơn tố cáo) của nhà thơ Đoàn Phú Tứ gửi lên Hồ Chủ tịch.

Tại nhà làm việc của Bác Hồ ở Chiến khu Việt Bắc, Bác cho mời Thiếu tướng, Phó Tổng thanh tra Quân đội Trần Tử Bình vào gặp rồi trao cho bức thư của nhà thơ Đoàn Phú Tứ gửi trực tiếp đến Bác. Bác nói: “Đây là thư cũng được mà đơn tố cáo của công dân cũng được. Chú về xem thật kỹ rồi cùng các đồng chí ở thanh tra quân đội làm gấp đấy, càng nhanh, càng chính xác, càng có lợi cho kháng chiến hiện nay”.

Thiếu tướng Trần Tử Bình đọc chậm từng dòng, từng chữ mà nhà thơ Đoàn Phú Tứ đã viết: “...Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu gần đây đã gây nhiều dư luận bất bình trong anh em binh sỹ quân đội, Châu đã dùng quyền lực ban phát “ăn – mặc” nên Châu đã giở trò ăn cắp. Cứ mỗi cái màn lính, Châu ăn cắp mất hai tấc vải, nên hễ trong màn mà ngồi lên là đầu đội đình màn. Còn áo trấn thủ, Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải phế liệu vào. Thưa Bác nhiều người biết đấy nhưng không ai dám ho he. Cháu đã cùng với một đoàn nhà văn đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ đội vừa đi chiến đấu trở về. Bác ạ, cháu đã phải khóc nấc lên khi thấy các chiến sĩ bị thương thiếu thuốc men, bông băng và hầu hết các chiến sĩ đều rách rưới, võ vàng đói rét, chỉ còn mắt với răng mà mùa đông tiết trời chiến khu lạnh tới mức nước đóng băng chẳng còn mấy tháng nữa lại đã về...”.

Đặc biệt trong bức thư nhà thơ Đoàn Phú Tứ kể trước đó đã được Trần Dụ Châu mời dự tiệc cưới của Lê Sỹ Cửu - thuộc hạ tín cẩn của Trần Dụ Châu. Đám cưới tổ chức ngay ở chiến khu “...trên những dãy bàn dài tít tắp xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, nấm hương, giò chả, thịt bò thui, rượu tây, cốc thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng, hoa Ngọc Hà dưới Hà Nội cũng kịp đưa lên. Ban nhạc Cảnh thân được mời từ khu Ba lên tấu nhạc réo rắt. Tại đó Trần Dụ Châu mặc quân phục đại tá choáng lộn, cưỡi ngựa đến dự cưới. Ngạo mạn hơn Trần Dụ Châu đã mời cháu đọc thơ mừng hôn lễ. Nhưng với lòng tự trọng của mình, cháu đã dũng cảm xuất khẩu “Buổi tiệc cưới của chúng ta sắp chén đẫy hôm nay được dọn bằng xương máu của các chiến sĩ”.

Ngay hôm sau Tổng Thanh tra Quân đội Trung tướng Lê Thiết Hùng triệu tập cuộc họp “Điều tra vụ tham ô của Đại tá Cục trưởng Quân Nhu Trần Dụ Châu”. Tại cuộc họp Thiếu tướng Trần Tử Bình đọc lại bức thư. Cả hội nghị im lặng. Ông nói “Trong hoàn cảnh hiện nay, cách mạng đang đứng trước những thử thách gay go. Địch tập trung phá hoại kinh tế... trong thời điểm nóng bỏng này, Trần Dụ Châu và đồng bọn lại mặc sức sống phè phỡn, trác táng... Bác Hồ yêu cầu chúng ta phải điều tra gấp, làm rõ từng vụ việc”.

Sau cuộc họp các cán bộ thanh tra quân đội tỏa về các liên khu. Riêng Thiếu tướng Trần Tử Bình đã khoác ba lô xuống đơn vị. Tại đây, ông gặp gỡ từng cán bộ, chiến sĩ để trò chuyện về đời sống của bộ đội, về cấp phát quân nhu của Trần Dụ Châu. Tiếp đó ban chỉ đạo chuyên án nhận được tài liệu Khu Bốn gửi ra, từ Khu Ba gửi lên. Hơn hai tháng điều tra làm rõ tội của Trần Dụ Châu, Lê Sỹ Cửu và đồng bọn. Tòa án binh đã mở phiên tòa xử án Trần Dụ Châu, Lê Sỹ Cửu với tội danh tử hình. Ngay tối hôm đó 5/9/1950 Bác đã thức trắng đêm xem lại đơn xin ân xá của Trần Dụ Châu. Xét thấy tội danh của Châu quá lớn, mặc dù công lao những ngày đầu kháng chiến của Y, Bác nói “một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ”.

Ngày hôm sau, 18 giờ ngày 6/9 tại trường bắn thị xã Thái Nguyên hồi đó, bản án dành cho kẻ thoái hóa, lộng lành biến chất tham nhũng, ảnh hưởng lớn đến kháng chiến được thực thi.

Nhà thơ Đoàn Phú Tứ (1910 - 1989), quê ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nhưng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội.

Đoàn Phú Tứ qua nét vẽ của danh họa Bùi Xuân Phái.

Ông đỗ tú tài Tây rồi vào học khoa Triết Trường Đại học Luật, ông viết báo, hoạt động nghệ thuật. Có thời gian làm chủ nhiệm báo Tinh Hoa (1937), Chủ ban Kịch Tinh Hoa (1937 - 1944). Ông là Đại biểu Quốc hội khóa I (1946). Ông ở vùng kháng chiến hoạt động lĩnhvực văn hóa, văn nghệ. Năm 1951 ông trở về Hà Nội sống như một thường dân. 20 năm cuối đời của ông chuyên dịch sách. Bài thơ để đời của ông được nhiều người nể phục là bài “Màu thời gian” trong đó có những đoạn: Màu thời gian không xanh/ màu thời gian tím ngắt/ Hương thời gian không nồng/ hương thời gian thanh thanh/ duyên trăm năm đứt đoạn/ Tình một thuở còn vương...

Trở lại việc nhà thơ Đoàn Phú Tứ viết thư thay cho đơn tố cáo của mình gửi lên Hồ Chủ tịch thời đó đã được nhiều người ngợi ca là tinh thần dũng cảm, ý chí chiến đấu rất cao. Ở vùng chiến khu mà lúc đó chưa có luật rõ ràng như bây giờ, chưa có những quy định cụ thể bảo vệ người tố cáo, trong khi tay chân của Trần Dụ Châu có mặt ở nhiều vùng, nhiều địa phương có thể sẵn sàng manh động trả thù. Chính vì thế hồi kháng chiến chống Pháp và cả ngay trong hòa bình, nhiều người phải nể phục tinh thần của nhà thơ Đoàn Phú Tứ.

Khi Bác Hồ viết bài thơ của Bác sáng tác dành cho các nhà thơ có 2 câu nổi tiếng mà thế hệ học trò như chúng ta đã đều thuộc, đều bình giảng, phân tích mà các thầy giáo hướng cho: “Nay ở trong thơ nên có thép/ nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Nhiều người cho rằng khi viết những câu thơ này Bác Hồ nghĩ ngay đến lá thư của nhà thơ Đoàn Phú Tứ gửi Bác tố cáo Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân Nhu ngày ấy ở chiến khu Việt Bắc.

Vụ án Trần Dụ Châu đã gần 70 năm về trước, nhưng còn nhiều ý nghĩa cho hôm nay khi chúng ta đang thực hiện Nghị quyết TƯ 4 khóa XI và Nghị quyết TƯ 4 khóa XII về xây dựng Đảng, quyết liệt chống tham nhũng, ai cũng biết tất cả các vụ án tham nhũng được phanh phui thì công đầu bao giờ cũng thuộc về ai đó dám tố cáo trung thực, thẳng thắn để có cơ sở điều tra.

Nhà thơ Đoàn Phú Tứ thật xứng đáng để lại trong lòng chúng ta, trong trận tuyến chiến đấu với giặc tham nhũng đầy cam go và quyết liệt.

Nguyễn Thiện Phùng


Nguyễn Thiện Phùng

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]