Người “cứu nguy” cho cơ nghiệp họ Trịnh
Nắm giữ quyền lực khi cơ nghiệp họ Trịnh (vua Lê - chúa Trịnh) đã bị lung lay dữ dội, lòng dân không thuận, khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Song với văn tài võ lược, ông đã “dựng lại đời suy”, cứu nguy cho cơ nghiệp họ Trịnh - tạo nên một giai đoạn ổn định trong lịch sử. Và ông chính là Ân vương Trịnh Doanh.
Nghị tổ Ân vương Trịnh Doanh được hậu thế phụng thờ tại Khu di tích Phủ Trịnh.
Cơ nghiệp lung lay
Là con trai trưởng của chúa Trịnh Cương - Trịnh Giang được chọn làm người kế nghiệp, nắm giữ quyền lực. Theo sử liệu, thời gian đầu nắm giữ quyền lực, chúa Trịnh Giang cũng chăm lo công việc đất nước. Tuy nhiên về sau, ông say mê hưởng lạc, bỏ bê chính sự, để mặc cho quyền thần dưới trướng là Hoàng Công Phụ lộng hành.
Sách Đại Việt sử ký tục biên, viết: “Chúa về cuối đời lười việc chính sự, thích đi chơi, xem, làm nhiều cung quán ở tứ trấn, các nơi danh sơn chùa cổ, chỗ nào cũng có vết xe, dấu chân ngựa... Về sau chúa không được khỏe, thích nghỉ ngơi tĩnh mịch. Hoàng Công Phụ lại đem chúa về kinh sư, làm cung Thưởng Trì, cho ở trong nhà kín (mật thất), chúa bèn ở trong đó không ra nữa. Hoàng Công Phụ cùng thân đảng lộng hành”.
Còn theo sách Việt Nam sử lược: “Từ khi Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa, giết hại vua Lê, hại cả các quan đại thần... và làm lắm điều tàn ác. Tính ông ấy đã tàn ngược lại hay tiêu dùng xa xỉ, thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng, dân tình khổ sở, giặc giã nổi lên khắp cả mọi nơi...”.
Trước tình cảnh ấy, trong triều các tôn thất nhà Lê như Lê Duy Mật, Lê Duy Quý và một số triều thần bất phục, mưu tính nổi dậy lật đổ quyền lực họ Trịnh. Tuy nhiên âm mưu bất thành nên phải bỏ chạy. Còn ở các trấn trong nước, giặc cỏ cướp bóc và các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ lấy cớ “phù Lê - diệt Trịnh” xảy ra khắp nơi. Người dân lành lúc bấy giờ, phần vì lâm vào cảnh đói nghèo, phần vì bất bình với quan lại và chính sách thuế khóa hà khắc nên đồng loạt nổi dậy, tham gia các cuộc khởi nghĩa, tạo nên làn sóng phản đối họ Trịnh vô cùng mạnh mẽ.
Tình thế nguy cấp, triều đình nghiêng ngả, lòng dân ly tán là vậy song chúa Trịnh Giang vẫn không mảy may sửa đổi. Để ổn định tình hình đất nước, cũng là cứu nguy cho cơ nghiệp họ Trịnh, bà Vũ Thái phi (mẹ đẻ của chúa Trịnh Giang và Trịnh Doanh) đã cùng với các quan đại thần ở Phủ Liêu họp bàn để truất quyền Trịnh Giang và đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa. Tuy nhiên, dù tuổi trẻ song là người trọng nghĩa, tính cách khiêm nhường, không muốn vì quyền lực mà để xảy ra cảnh “nồi da nấu thịt” nên Trịnh Doanh đã từ chối. Dẫu vậy, trước sự khuyên can hết lời của thân mẫu và các quan, rằng: “Việc đưa con lên ngôi chúa không còn là việc của nhà nữa, mà đó là việc nước, con nên thuận theo” (sách Ân vương Trịnh Doanh, Trịnh Xuân Tiến biên soạn, NXB Lao Động, 2003). Sinh năm 1720, Trịnh Doanh kế nghiệp chúa năm 1740, khi tròn 20 tuổi.
Dựng lại đời suy
Kế nghiệp, bằng văn tài võ lược xuất chúng, chúa Trịnh Doanh đã từng bước giải quyết tình thế cam go. Để ổn định lòng dân, chúa Trịnh Doanh và các quyền thần đồng lòng đưa Lê Duy Diêu - tức vua Lê Hiển tông lên ngôi, lấy niên hiệu Cảnh Hưng. Việc đưa vua Lê Hiển tông lên ngôi mang ý nghĩa chính danh, góp phần giải quyết việc triều chính lộn xộn.
Sau khi giải quyết việc triều chính, chấn chỉnh, sắp đặt lại bộ máy, lựa chọn người tài đức giúp sức, chúa Trịnh Doanh dồn lực đánh dẹp giặc cướp và các cuộc khởi nghĩa.
Theo sách Việt Nam sử lược: “Đời bấy giờ giặc cướp thì nhiều, nhưng mà những giặc to phải đánh lâu thì có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Võ Trác Oánh ở đất Hải Dương; Hoàng Công Chất, Võ Đình Dung ở Sơn Nam; Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên, Tế Bồng ở Sơn Tây; Nguyễn Hữu Cầu ở mặt Đông Nam; Lê Duy Mật ở mặt Thanh Hóa và Nghệ An...”. Tuy nhiên bấy giờ, dưới trướng Trịnh Doanh là các tướng lĩnh tài năng xuất chúng như Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt... đã cùng với nhà chúa dốc sức dẹp loạn.
Năm 1740, ngay khi vừa lên nắm quyền, ở đất Sơn Nam có giặc ở làng Ngân Già (sử sách thường viết giặc Ngân Già) cướp phá hiên ngang, giết cả quan Đốc lĩnh... thế giặc rất mạnh. Chúa Trịnh Doanh đã thân chinh dẫn quân đi đánh, bắt được tướng giặc mới dẹp yên được tình hình. Những năm sau đó, cùng với lo chính sự, trong tình thế nguy cấp, chúa Trịnh Doanh nhiều lần dẫn binh, phối hợp với các tướng đánh giặc.
Không chỉ lo đánh dẹp giặc giã, chúa Trịnh Doanh chú trọng điều hành, các chính sách phát triển đất nước; lắng nghe, quan tâm đến đời sống người dân. Xác định, muốn được lòng dân phải được dân tin tưởng. Và muốn vậy thì phải thấu hiểu nhân tình, lắng nghe người dân, tránh để người dân bị oan khiên. Năm 1747, chúa Trịnh Doanh cho treo chuông, khánh đặt bên cửa tả Phủ Liêu. Người dân bị ức hiếp hay có điều oan khuất, không kêu được ai thì làm đơn đến đây lắc khánh để Lại phiên đón tiếp và trình lên chúa. Còn người nào muốn tham gia góp ý về chính sự, bày tỏ ý kiến cá nhân, giúp dân, giúp nước thì gõ chuông.
Đất nước vừa qua cảnh binh đao, để yên dân, chúa Trịnh Doanh nghiêm cấm các việc thu tiền sai trái. Quan lại không được tịch biên công cụ làm ruộng (điền khí) và trâu bò của dân, mà phải khuyến khích người dân cày cấy.
Vùng đất Sóc Sơn (xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc trước đây) nay thuộc xã Biện Thượng là quê hương của Ân vương Trịnh Doanh.
Để củng cố lực lượng dân binh bảo vệ làng mạc, đất nước khi xảy ra binh biến, chúa Trịnh Doanh cho xây dựng lực lượng dân binh ở các xã để giữ làng và cùng giúp nhau khi có giặc cướp. Trên bình diện rộng, ông thực hiện việc luân phiên đổi lính, để binh lính vừa có thể làm ruộng, vừa có thể ra lính khi cần thiết. Nhờ vậy mà có thêm nguồn lực cho sản xuất, lại giảm gánh nặng cho ngân khố quốc gia. Và để chống tham nhũng và lạm phát, nhà chúa quản lý chặt chẽ việc đúc tiền.
Trong thời gian nắm giữ quyền lực, chúa Trịnh Doanh cũng được biết đến là người quan tâm đến việc viết sử; ông cho xây dựng võ miếu để tôn thờ các bậc tiền nhân. Đồng thời, nhà chúa cũng là người quý trọng bậc hiền tài. Hàng loạt nhân vật lịch sử nổi danh thời bấy giờ được chúa Trịnh Doanh phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng. Có thể kế đến, như Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Bá Lân, Lê Quý Đôn, Phạm Đình Trọng...
Cố Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học trong sách Ân vương Trịnh Doanh đã nhận xét: “Không chỉ là một nhà chúa có trách nhiệm trước cuộc sống của muôn dân, trước sự tồn vong của dân tộc, mà còn là người có đức khiêm nhường, có tình cảm yêu thương chan chứa mà tôi xin khái quát trong hai câu thơ: Yêu nhân tình, yêu chính nghĩa, ghét thị phi/ Trọng tài đức, giữ thiện căn, khinh bội bạc”.
"Kế nghiệp trong tình cảnh đất nước rối ren, quyền lực họ Trịnh lung lay, song với 28 năm nắm giữ quyền lực, bằng tài năng, trí tuệ và tâm huyết, chúa Trịnh Doanh không những cứu vãn cơ nghiệp họ Trịnh mà còn góp phần “chèo lái”, đưa đất nước vượt qua sóng gió, góp phần tạo nên một giai đoạn phát triển ổn định. Dẫu về sau này, “bánh xe” lịch sử có những biến động, xoay vần thì công lao, dấu ấn của ông là không thể thay đổi" - ông Trịnh Văn Sơn, hậu duệ dòng họ Trịnh ở đất Sóc Sơn, nay thuộc xã Biện Thượng, chia sẻ.
* Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong một số tài liệu sử và sách Ân vương Trịnh Doanh.
Bài và ảnh: Khánh Lộc
{name} - {time}
-
2025-10-09 09:34:00
Những bí thư chi bộ hết lòng vì dân
-
2025-10-07 08:11:00
Học sinh trường làng giành giải toán học châu Á
-
2025-10-05 14:41:00
“Cô Nguyễn Thị Lợi” của cải lương Thanh Hóa