(vhds.baothanhhoa.vn) - Trong sự quy ước, thời gian mang khuôn mặt con người, và ý niệm về mùa xuân ẩn chứa câu chuyện của đời người. Nói cách khác, xuân (và các tưởng tượng khác về thời gian) là sự gửi gắm quan niệm của con người trong việc trưng dụng và quy ước thời gian.

Thơ xuân và những âu lo trước thời gian

Trong sự quy ước, thời gian mang khuôn mặt con người, và ý niệm về mùa xuân ẩn chứa câu chuyện của đời người. Nói cách khác, xuân (và các tưởng tượng khác về thời gian) là sự gửi gắm quan niệm của con người trong việc trưng dụng và quy ước thời gian.

Thơ xuân và những âu lo trước thời gianMinh họa: Hà Hiếu

Một trong những điểm nổi bật của quan niệm thời gian hiện đại là thời gian tuyến tính, khác với thời gian trong cảm quan trung đại là thời gian tuần hoàn: Sao người không dạo chơi thêm vài mùa xuân nữa/ Cho em được nở hoa một lần/…/ Khi người đi xa, chỉ còn chúng em với biệt cung vĩnh cửu/ Khoảng trời của em là những đám mây lang thang qua ô cửa tò vò/ Kéo theo mùa xuân vô nghĩa của em đi (Biệt cung - Hồ Đăng Thanh Ngọc). Trong khi đó, đa phần, cảm thức về mùa xuân trong thơ đương đại không thoát ra khỏi cảm niệm tuyến tính vốn đã hình thành từ thời Thơ mới.

Như là sự nối dài của Thơ mới, xuân trong thơ đương đại vẫn cứ là những ám ảnh về thời gian của tuổi trẻ, về những hy vọng đầm ấm, sum vầy hay những luyến tiếc, tuyệt vọng: Mà đào đã thoắt đào phai/ Mà xuân thoắt đã giêng hai rỡ ràng/ Buồn vui thoắt đã cũ càng/ Lòng tay sấp ngửa thời gian rối bời (Thời gian - Nguyễn Bảo Chân). Ý niệm về xuân như là tuổi trẻ, phần non tơ rỡ ràng nhất của đời người vẫn là chủ đạo trong tâm thức của con người đương đại. Xuân ấy là mùa tươi đẹp, là thời khắc phô bày đầy đủ nhất sức sống của thiên nhiên, con người: Viễn xứ chiều nay/ Ta cùng ta cùng hoa/ Nở điệu biếc/ Gọi mưa xuân xanh (Hoa nắng - Nguyễn Phan Quế Mai). Hình như, với mùa xuân, con người nguôi quên đi những ám ảnh về sự trôi chảy, khắc nghiệt của thời gian. Sự thật, đó là một thỏa hiệp trong tận cùng âu lo. Bởi lẽ, người ta phải sợ hãi cái chết, sự tàn úa đến thế nào mới bừng lên ánh sáng của niềm hân hoan được sống, được hiện hữu như thế: Điệp khúc xuân hoan nhập cư từng huyết mạch/&/ anh hôn/ em (Anh thận trọng sắp từng hơi thở - Nguyễn Lãm Thắng). Khát vọng sống, sinh sôi chính là sự thể hiện ở tận cùng của nỗi ưu tư về khả năng không tồn tại của con người. Họ phải sống như mùa xuân tươi đẹp. Họ phải đến với nhau để chống chọi lại sự cô độc. Họ phải yêu đương, phải ân ái, phải sinh sôi để sự sống không dừng lại hay biến tan. Có điều gì thôi thúc lớn hơn là nỗi ám ảnh rằng ngày mai tất cả sẽ rơi vào hố thẳm của sự hủy diệt: Mùa xuân/ Nở bừng tuyệt vọng!/ Và những đôi mắt cá chết/ Đã nói với tôi rất nhiều về Tình Yêu/ Kết thúc - Bắt đầu - Ở đây/ Nơi ngọn gió ngập ngừng/ Trong nỗi mệt mỏi dịu dàng tan chảy/ Trái đất khởi một vòng xoay (Ở đây - Hàm Anh).

Suy nghĩ về thời gian giúp con người kháng cự khả năng không tồn tại ở mức tối đa có thể. Bởi lẽ đó, con người tận khai xuân sắc, tận hưởng xuân thì, trì níu xuân xanh: Vẫn tìm Anh suốt dọc thanh xuân, những tinh mơ, những chiều lạnh lẽo/…/ Ngày Anh đến mùa tình lên (Mùa tình - Vi Thùy Linh); Xuân đi đuổi những héo mòn/ Tóc anh hoa muối nuối con sông gầy/ Em ơi tình đã về đây/ Giao bôi ly mẻ rót đầy lòng nhau (Dạm lòng - Mạc Mạc). Sắc thái tươi đẹp, ấm áp, tràn đầy sức sống, quyến rũ và say mê,… của xuân có nguồn gốc từ bản thân tự nhiên, nơi con người sinh sống. Các nhà thơ Việt Nam đương đại bày tỏ một cách khá nồng nhiệt khía cạnh này: Trườn đồi xuân/ Giọt thở lăn vụng trộm/ Nưng nức thơm/ Tròn căng mùa sữa (Đồi xuân mộng - Nguyễn Lãm Thắng); Từng ngón xanh mùa xuân/ Khe khẽ đan em vào anh/ Mỏng manh hồng/ Những búp măng mùa xuân/ Cựa mình/ Khe khẽ chín (Sen - Nguyễn Phan Quế Mai). Thân thể mang hơi xuân, sức xuân, vẻ đẹp của xuân, đang dậy lên những “mùa tình”, khai phóng những bản năng sống gần gũi nhất với tồn tại: Anh nâng mùa em trên tay/ Rễ anh sâu trong em/ Vươn/ Anh thở vào em sương ẩm ướt/ Ô, những đứa con xanh hé búp/ Ngày Xuân/ Trong/ Ríu rít những con chim vô hình (Mùa em - Hàm Anh). Rõ ràng, con người phải bám vào một điều gì đó để đánh dấu mình trong thời gian. Nghĩa là cần phải có “vật chứng trước thời gian” (Trương Đăng Dung). Nếu không có những chỉ dấu ấy, con người không nhận ra được thời gian, và như thế nghĩa là không nhận ra sự hiện hữu của mình.

Xuân như một phạm trù thời gian tính đã lưu lại những dấu vết của con người bằng cách diễm tuyệt nhất, cũng đau đớn nhất. Tất cả vẻ đẹp của xuân: hoa thơm, trái ngọt, trời xanh, mây trắng, chim ca, sương trong, cỏ biếc, ấm áp, thơm tho, rực rỡ, mới mẻ, trẻ trung,… luôn ẩn chứa nỗi hoang mang về sự mất đi, sự tàn hủy. Cái đẹp nơi giao tranh mãnh liệt nhất của khả năng “tồn tại hay không tồn tại” đã đem đến cho thời gian khuôn mặt của nhân gian. Thời gian đã lộ ra trong nỗi lo âu của con người. Họ nhận ra nỗi bất lực của bản thể - của chính họ và của loài người trước giới hạn. Cũng có đôi lúc, niềm tin siêu vượt đã (tạm thời) chiến thắng nỗi tuyệt vọng. Sự an nhiên vì thế có cơ hội được tỏ lộ: Sương mù: Giăng/ Gỗ mục/ Đơm hoa (Mai Văn Phấn); Thèm nghe một câu kinh kệ/ Chuông chùa mãn hồi từ lâu/ Ta có hay là không có/ Tàn hoa, xuân vẫn trên đầu (Viết lại - Đoàn Văn Mật). Dù vậy, ngay cả trong sự an nhiên, ngay cả trong cảm thức có vẻ như đã buông bỏ thời gian thì thời gian tính lại vẫn cứ hiện diện. Lắm khi, vì siêu hình như thế, ta lại thèm nghe nỗi âu lo rất đỗi trần gian này: Em nói bâng quơ: Mùa xuân rồi cũng tàn/ Anh ghì lấy bao nỗi lo toan trên đôi vai em gày nhỏ (Thương em - Mai Văn Phấn).

Cảm thức về thời gian, sự quy ước hay xác lập khuôn mặt của thời gian còn được nhìn nhận trên phương diện chất lượng hay chiều sâu của những suy tư về thời gian. Ở góc độ này, lấy mùa xuân làm cớ cho một phản đề, một số thi sĩ đương đại đã chạm đến bản chất của thời gian: Em nói mùa xuân, anh chỉ nghe/ Em nói trời xanh, anh chỉ nghe/ Nói đi em, mặt trời sắp lặn/ Nói đi em, mặt trời sắp lặn/…/ Em hỏi niềm vui nào anh đã thấy/ Anh không còn nhớ nữa, hôm nay/ Em hỏi trang thơ nào anh đã đọc/ Anh không còn nhớ nữa, hôm nay/…/ Em nói trời xanh anh chỉ thấy mắt em/ Em nói mùa xuân anh chỉ thấy môi em/ Hoàng hôn xuống đã trùm lên hết thảy/ Bóng hai ta nhỏ bé giữa đất này (Không đề - Trương Đăng Dung). Em nói mùa xuân, trời xanh, anh chỉ nghe, vì anh biết nó không thuộc về thời gian, nó thuộc về con người, do con người tạo nên, trong tiếng kêu ngày một gần hơn của lũ quạ (ý thơ của Trương Đăng Dung).

Cách nói Xuân không mùa của Xuân Diệu nghe chừng đến được với bản chất của vấn đề thời gian tính: Xuân không chỉ là mùa xuân ba tháng/ Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ/ Chim trên cành há mỏ hót ra thơ/ Xuân là lúc gió về không hẹn trước. Các nhà thơ đương đại, về cảm trạng, đã lo âu nhiều hơn, sợ hãi nhiều hơn các thế hệ cha anh của mình. Đó không phải nỗi sợ của việc đương đầu với chiến tranh mà là nỗi sợ hãi của con người trước tồn tại. Họ ít viết về mùa xuân hơn, có lẽ là một sự thức tỉnh. Bởi, chính khi họ ý thức một cách mãnh liệt nhất về tồn tại của mình, cũng là khi sự hủy diệt xâm chiếm, đẩy tồn tại đến bên bờ “hố thẳm” hư vô. Cùng với sự sợ hãi là nỗi cô độc. Đó là sự cô độc giữa đám đông, sự cô lập giữa muôn vàn kết nối, giao thoa: Bóng người trước mặt/ Đường xuân càng bước càng xa (Tự xuân - Đoàn Văn Mật). Cô độc nhắc con người về hiện hữu. Bởi thế, niệm thức về xuân đã được khởi sinh trên nền tảng chủ thể tính là một cái tôi cô độc, sợ hãi. Cái tôi ấy truy vấn thực tại để kiếm tìm một thực tại khác, để làm lộ ra bản chất của đời sống như là trạng thái nguồn cội: Anh không thấy mùa Xuân/ Anh chỉ thấy người ta đang diễn giải về chính nó với niềm tin ngây thơ rằng mọi đau buồn đã qua, mọi hạnh phúc đang đến và thế giới đang bước sang một kỷ nguyên phục hưng/ Không ai giành nhận hết về mình những khổ đau, không ai chúc người khác bớt khổ đau, không ai mong tìm thấy ý nghĩa khổ đau trong cuộc đời mình (Đoản khúc số 0 - Fan Tuấn Anh). Những kiến tạo xung quanh con người mục đích là để kháng cự lại tình trạng bi kịch, để an ủi thân phận trong mặc cảm đầy đọa - “bị quăng vào” (con người sinh ra là một ngẫu nhiên, không được lựa chọn). Đó là định mệnh, nhưng cũng là căn nguyên, động lực cho sự hiện hữu: Vào một ngày cuối Giêng/ Người hàng xóm góa chồng/ Trở về từ nghĩa địa/ Cắm đầy hoa tầm xuân trong phòng ngủ của mình (Hồi tưởng tháng Giêng - Nguyễn Quang Thiều).

NGUYỄN THANH TÂM



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]