Bóng chữ ẩn ở Châu Thường
1. Nhờ sự “hướng đạo” của Vi Văn Hà, một đồng đội cũ hồi chiến tranh, tôi có được chuyến đi Châu Thường vào một sáng đầu hè năm rồi.

Minh họa: BH
Chia xa từ hồi bảy tư (1974), nay mới gặp lại ở lễ hội Chí Linh Sơn nhưng chúng tôi vẫn nhận ra nhau. Biết tôi đang đi tìm thứ chữ Hỏa Châu có từ thời các vua Hùng mà cụ học giả Vương Duy Trinh, Tổng đốc tỉnh Thanh, đã viết trong cuốn sách nổi tiếng Thanh Hóa quan phong, hơn một trăm năm trước, Hà liền cởi mở nói: “Bố em là thầy mo, hiểu cái chữ này lắm! Anh đi với em, gặp cụ, đảm bảo là anh sẽ mê luôn”. Chẳng khác nào buồn ngủ gặp được chiếu manh nên tôi theo Hà về quê anh luôn. Dọc đường tôi hồi hộp mừng thầm trước cơ may gặp được một người “hiểu cái chữ này lắm” và mong đường đất cứ hãy ngắn lại thật nhanh để sớm được gặp người “hiểu cái chữ này lắm”.
2. Cụ Vương Duy Trinh không chỉ là vị quan đầu tỉnh thời Nguyễn mà còn là một học giả uyên thâm với nhiều công trình khảo cứu, luận giải mà cuốn sách Thanh Hóa quan phong là tấm gương lớn soi toàn diện về đất và người Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX. Điểm ấn tượng nhất trong sách là cụ viết kỹ, viết sống động đến từng dân tộc miền núi xứ Thanh và khẳng định, chính miền Tây Thanh Hóa là nơi “di văn sơn cư” (văn theo người lên ở núi). Cụ còn phiên dịch các chữ cổ ra chữ Nôm, trong đó bài Mời trầu: “Vào vườn trẩy trái cau xanh/ Bổ ra làm sáu mời anh ăn trầu/ Trầu này trầu nghĩa trầu tình....” đã trở thành bài ca lứa đôi của người Thái, người Mường ở các châu Thường Xuân, Lang Chánh, Quan Sơn, Ngọc Lặc... Học giả Vương Duy Trinh khẳng định: “Hỏa Châu tự (chữ Hỏa Châu) tựa nôm, mà không phải nôm; tựa Thái, mà không giống Thái; không đủ để làm sách, nhưng đủ ghi việc, ghi tên”. Đọc những dòng này, tôi cứ mạo muội nghĩ, đây là một thứ văn tự độc đáo của người Việt cổ, nửa như một phương tiện ghi nhớ, nửa như một kỹ thuật giao tiếp bí mật trong buổi bình minh lịch sử dân tộc.
3. Thầy mo, thân sinh của Hà, bạn tôi, tên đầy đủ là Vi Văn Sơn, đã ngoài chín mươi tuổi. Khi Hà đưa tôi về nhà, thấy cụ đang ngồi trước hiên, đốt một thanh củi thông lớn. Ngọn lửa cháy xanh lét, tàn bay li ti trong gió. Cụ Sơn đội mũ vải kiểu người Thái, bộ râu trắng và dài của cụ, đẹp vẻ đẹp tiên cốt như râu của ba bậc đại thọ Tam Đa...
Chào cụ xong, tôi “phi lộ” vài lời nói về mối quan hệ đồng đội với Hà và hỏi cụ về nguồn gốc lịch sử và “thực trạng” hiện tại của chữ Hỏa Châu. Cụ Sơn không nhìn tôi, chỉ nói nhỏ: “Cái chữ đó không chết đâu. Nhưng người đọc chữ thì sắp hết rồi”.
Tuy có ngạc nhiên nhưng tôi vẫn lấy bút, giở sổ và cả máy ghi âm nữa để sẵn sàng “tác nghiệp” với hy vọng là mình đã tìm được chiếc chìa khóa vàng để mở ra một kho báu di sản chữ cổ của dân tộc. Thấy thế, thầy mo Sơn liền xua tay, đủng đỉnh nói: “Không phải dùng cái đó đâu. Muốn hiểu cái chữ Hỏa Châu thì phải nghe bằng tai, nhớ bằng tim và thấy bằng lửa”.
Nói xong, cụ đứng lên, đi vào nhà. Hà liền ra hiệu cho tôi, ý như bảo, tôi cứ tự nhiên nhi nhiên, còn anh thì đi theo cha mình. Lát sau, hai người quay ra, trên tay Hà là một chồng tấm bảng gỗ đã sẫm màu.
Cụ Sơn trải các tấm gỗ ra. Trên ấy là những ký tự lạ, những nét gãy, móc cong, giống như chữ, mà cũng như các dấu chân chim in trên đá. Tôi tò mò hỏi: “Thưa cụ! Đây là chữ Hỏa Châu?”.
Cụ Sơn mỉm cười: “Ờ, nhưng không phải chỉ là chữ. Đây là tiếng của trời, của đất, của người xưa thăm thẳm, không phải ai cũng đọc được. Ông mới ở xa đến, lại là bạn con tôi, cứ xem qua mấy cái này cho biết rồi nghỉ ngơi, uống rượu, tối ta nói chuyện tiếp với nhau lâu hơn”.
Sau đó, cụ Sơn dặn Hà, đi đun nước lá thơm cho tôi tắm và chuẩn bị bữa trưa thật chu đáo đãi khách. Cụ có đám mời đi làm lễ, chập tối mới về.
Đêm ấy, gió miền núi thổi lồng lộng, réo hun hút như những tiếng hú dài. Thầy mo Vi Văn Sơn nhóm một bếp lửa giữa nhà, lửa bập bùng như con mắt màu cam pha sắc đỏ đang mở to trong bóng tối. Tôi ngồi đối diện cụ, cảm giác như đang chờ một nghi lễ cổ xưa mà chưa bao giờ mình có tư cách tham dự.
Cụ Sơn sai con trai đem các tấm bảng gỗ lúc sáng ra, giơ sát từng tấm trước ngọn lửa. Tôi có cảm nhận, những ký tự trên từng tấm gỗ đó như sáng lên, như đang cựa quậy.
Bỗng cụ Sơn hỏi tôi: “Ông có biết vì sao gọi là chữ Hỏa Châu không?”. Tôi khẽ lắc đầu đáp: “Thưa không ạ”. Cụ hất nhẹ cây củi, tàn bay xoắn vào không trung bảo tôi: “Vì chữ đến từ lửa. Người xưa ngồi ba đêm trong rừng, nhìn lửa nhảy. Lửa nhảy thế nào, tay vẽ thế ấy. Lửa của đất châu, đất mường, đất bản. Không có lửa thì chữ là nét mù. Ông mới đến đây sáng nay nên chưa hiểu hết được cái lý đúng cũng là phải thôi, đừng vội thoái nghĩ!”. Tôi vâng lời cụ Sơn và nhìn những ký tự sáng lên trong ánh lửa. Đó không phải chữ theo nghĩa ký âm và tự dạng như tôi từng hiểu. Nó giống như một thứ nhịp điệu, một sự co giãn của không gian, một thứ ám tín để gọi tên trời đất, gió mưa, gọi hồn người xưa và cỏ cây hoa lá.
Thầy mo Vi Văn Sơn nói tiếp, giọng nhỏ thì thào như gió nhẹ luồn qua phên nhà: “Ông muốn biết chữ vì công việc tìm hiểu nghiên cứu. Còn người xưa thì viết chữ để giữ vía bản mường. Không phải để ghi, mà để nhớ. Không phải để kể, mà để gọi”.
Rồi cụ hắng giọng đọc một đoạn, tiếng ngân nga như hát: “Châu hỏa le, châu hỏa le/ Núi nói bằng bóng/ Nước nói bằng dòng/ Người giữ chữ bằng tim, không bằng mắt...”.
Tôi cảm thấu đến hút hồn vì những lời ca cụ Sơn vừa đọc, vì tôi đã được nghe và thuộc các câu hát đó từ một cô gái Thái, trong đội văn nghệ của một xã bản ở chân núi Chí Linh. Thì ra người Thái miền Tây xứ Thanh Hóa, dù ở đâu cũng đều cùng một cội.
Giọng đọc chữ cổ của cụ Sơn bỗng trầm xuống. Đôi mắt cụ, tuy vẫn có ánh lửa nhưng thỉnh thoảng lại chớp chớp rồi cụ rầu rầu kể: “Cha ông chúng tôi dặn lại, các bậc mo tiên tổ của chúng tôi dặn lại, cái chữ Hỏa Châu cũng vật vã đau đớn lắm. Khi người phương bắc là Sĩ Nhiếp mang chữ Hán sang ta, chữ Hỏa Châu bị dẹp, bị bãi, bị diệt thảm thiết, khốc hại lắm. Song, con người ta có hồn, có vía nên chữ Hỏa Châu nhập vào và nó đã “di văn sơn cư” (văn theo người lên ở núi), giữ lại được đến hôm nay”.
Gần nửa đêm, Hà đưa cha anh đi ngủ. Sau đó, anh mang một vò rượu ngô ra sân đầy ánh trăng, rót vào hai cái bát. Tay nâng một bát, Hà vừa mời tôi, vừa nói như giải thích: “Bố em chỉ dạy chữ cho người có duyên thôi. Mà duyên thì lạ lắm, tìm không được, chỉ đến khi nó tự đến. Cái duyên này đã xui khiến em được gặp anh ở hội lễ Chí Linh Sơn đấy!”. Tôi nói lời cảm ơn rồi hỏi Hà: “Hà biết nhiều về chữ Hỏa Châu không?”. Hà khẽ lắc đầu: “Em biết đọc vài nét thôi. Nhưng không dám học. Sợ học xong không dùng được. Mà không dùng thì chữ mất. Mất chữ là mất vía bản, bố em bảo thế nên cũng có lúc thích mà không dám”. Câu đáp của Hà như lưỡi dao khoáy vào tim tôi. Tôi nói như hỏi lại Hà: “Có nghĩa là, không dám học, vì sợ học xong mà không truyền được nữa”. Hà: “Cũng khó nói hết được anh ạ. Em thì em cứ cho rằng, chữ đó đang chết dần, không phải vì người ta lười học, mà vì người ta sợ mình sẽ là cuối cùng”.
Sáng hôm sau, khi trời đã tan sương, thầy mo Vi Văn Sơn dẫn tôi lên một mỏm đá cao, có thể nhìn rõ cả một vùng thung lũng rộng lớn. Mây trắng quấn vào chân núi, nước sông như dải lụa uốn mềm. Cụ đưa bảng gỗ lên cao, nói: “Chữ này sinh ra để gọi bản, gọi mường. Đất biết, trời biết, người trong núi biết. Nhưng người dưới xuôi thì không biết thế nào. Ông đến đây học chữ, làm tôi vui lắm. Nhưng đừng mang chữ đi để nó thành thứ lạ. Chữ chỉ sống khi nó được dùng đúng chỗ”. Tôi hỏi cụ và gọi cụ bằng “Thầy”: “Thầy ơi, Thầy cho con ghi lại để người đời sau, bất kể là đồng bào dân tộc hay người dưới xuôi, đều biết, được không ạ? Giống như từ năm 1904, cụ học giả Vương Duy Trinh đã viết về chữ Hỏa Châu, để hôm nay, con có được cơ duyên đến đây gặp thầy!”. Cụ Sơn cười, nụ cười của một đại thụ giữa rừng xanh, sáng lên như lửa: “Biết thì tốt. Nhưng đừng bắt chữ sống bằng giấy. Chữ phải sống bằng người, bằng lửa”. Nói rồi cụ khẽ đặt tay lên vai tôi: “Ông hãy nhớ lấy: Một chữ mà không còn người đọc thì nó ngủ. Nhưng chỉ cần một người gọi tên nó, dù chỉ một lần, nó sẽ thức lại”. Tôi đáp: “Thưa thầy, lời thầy thật chí lí ạ!”.
4. Tôi rời nhà thầy mo Vi Văn Sơn trong một buổi chiều nắng đẹp và mát mẻ. Cụ tiễn tôi ra tận con dốc đầu bản. Gió nam đầu hạ thổi mạnh. Những bông lau trắng bay như mảnh giấy nhỏ. Cụ Sơn cầm tay tôi ân cần dặn: “Về dưới xuôi, khi nào viết xong bài về Hỏa Châu tự, ông đừng quên đốt một que củi mà đọc tên nó. Chữ Hỏa Châu, Hỏa Châu tự chỉ nhớ người biết gọi nó bằng lửa thôi!”.
Tôi thành tâm tạ ơn câu truyền đáng giá bảo bối của cụ song chỉ nói được mấy từ, thì giọng nghẹn lại đến mức không nói thêm được lời nào nữa.
Hà đèo tôi bằng xe máy ra thị trấn huyện để đi xe khách về xuôi. Tôi ngoái lại, thấy thầy mo Vi Văn Sơn vẫn đứng nhìn về phía chúng tôi. Bóng cụ thật kỳ vĩ, trước bạt ngàn lau, một thực thể thảo mộc mảnh mai nhưng suốt đời cùng với gió giao tranh mà không cúi rạp. Đó là dáng vóc chứng nhân một phần của quá khứ, của núi rừng xanh biếc, vĩnh hằng.
Tại thị trấn, lúc tôi sắp lên xe, Hà nói với tôi: “Anh Tu ạ, em đổi ý rồi, em sẽ học cách, cha em đã hiểu, đã giữ thiêng hồn cốt chữ Hỏa Châu. Anh về Hà Nội có thêm tài liệu gì liên quan đến chữ Hỏa Châu thì gửi cho em, anh nhé. Em sẽ học chữ Hỏa Châu kỹ lưỡng hơn và không sợ là người cuối cùng. Em thấy, bố em rất quý anh, anh sớm trở lại với bố em, được không?”. Tôi đáp: “Nhất định rồi!” và ôm chầm lấy Hà hệt như năm 1974, chúng tôi chia tay nhau trước khi đi ra hai chiến trường đang độ khốc liệt.
Truyện ngắn của Lê Ngọc Minh (CTV)
{name} - {time}
-
2025-12-06 19:00:00[Podcast] Truyện ngắn: Biển động
-
2025-12-05 13:15:00Đôi bàn tay
-
2025-12-04 20:30:00Vì sao tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” được chọn đưa vào sách giáo khoa?
![[Podcast] Truyện ngắn: Biển động](http://c.baothanhhoa.vn/media/img/256/news/2548/146d6105757t05731l1-download9.webp)





