Công nghệ “chắp cánh” cho di sản (Bài 3): Có công nghệ - đến gần hơn với di sản
Chuyển đổi số - áp dụng công nghệ số ví như “chìa khóa” để bảo tồn, phát huy giá trị di sản tốt hơn. Vậy nhưng, một trong những khó khăn trong công tác số hóa ở nhiều di sản hiện nay lại là bài toán kinh phí.
Khu Di tích lịch sử Lam Kinh là một trong những điểm đến được số hóa - ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý và phục vụ du khách.
Đa dạng ứng dụng công nghệ số
Thực tế, bên cạnh việc số hóa - quét mã “QR” thì với sự phát triển của công nghệ số hiện nay, số hóa trong lĩnh vực di sản đa dạng, được thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Ông Nguyễn Văn Minh, Phó trưởng Phòng Kinh doanh công nghệ số (MobiFone Thanh Hóa) - một trong những đơn vị đã trực tiếp thực hiện số hóa tại nhiều di tích, bảo tàng trên địa bàn tỉnh, cho biết: Một trong những công nghệ phổ biến đang được sử dụng hiện nay là công nghệ thực tế ảo VR và công nghệ thực tế tăng cường AR. Trong đó, VR là sử dụng công nghệ 3D scanning tái hiện không gian một cách chân thực, sống động dựa trên các dữ liệu đã được số hóa. Với sự trợ giúp của kính đeo VR, tai nghe, người xem ở bất kỳ nơi nào có kết nối internet đều có thể ngắm nhìn, khám phá, thậm chí là tương tác “gần như” thực tế với các cảnh quan. Đặc biệt, không chỉ hiển thị đơn thuần dưới dạng hình ảnh 3D, một số hệ thống VR còn có thể mô phỏng âm thanh, thậm chí còn cả... mùi khá chân thực.
Trong khi đó, AR là công nghệ giúp việc trải nghiệm trực tiếp tại di tích mang tính trực quan, sinh động hơn, kèm theo các “hotpot” chỉ dẫn, như dẫn đường, dẫn hướng, chỉ dẫn về khoảng cách, điểm tham quan tiếp theo, thuyết minh dạng hình ảnh, âm thanh, kết hợp với công nghệ AI TTS để thuyết minh tự động tới trực tiếp từng khách tham quan.
Cũng theo ông Nguyễn Văn Minh, hiện nay việc số hóa di tích trải qua hai cấp độ chính, tương đương với việc áp dụng đồng thời hoặc từng công nghệ AR/VR. Công nghệ VR sẽ giúp tái hiện không gian chân thực bằng các hình ảnh 3D, 360 độ từ trên cao và mặt đất, tạo thành tour du lịch ảo trên môi trường mạng. Trong khi đó, công nghệ AR sẽ nâng cao trải nghiệm của khách tham quan khi trực tiếp đến điểm di tích.
Riêng đối với số hóa hiện vật, cổ vật, ngoài hai công nghệ trên, có thể sử dụng công nghệ scan 3D hiện vật. Đây là công nghệ hiện đại, sử dụng để tái hiện hình ảnh 3D hiện vật theo các góc cạnh và giới thiệu trên môi trường số.
Cần thêm những nguồn lực đầu tư
Với hơn 30.000 hiện vật hiện có, việc số hóa hiện vật đã được Bảo tàng tỉnh thực hiện trong 3 năm qua, tuy nhiên thực tế, đến thời điểm hiện tại, số lượng hiện vật, tư liệu được số hóa tại đây mới chỉ có 600, cùng với đó là 3 bảo vật quốc gia. Và ngoài 3 bảo vật quốc gia đã được số hóa ở “cấp độ cao”, mang đến cho khách tham quan trải nghiệm sống động, chân thực thì các hiện vật còn lại chủ yếu mới dừng lại ở việc số hóa - lưu trữ và tra cứu thông tin.
Bên cạnh quét mã QR, còn có nhiều ứng dụng công nghệ đã được áp dụng để số hóa di sản.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc số hóa tại Bảo tàng tỉnh còn hạn chế, theo ông Trịnh Đình Dương, Giám đốc Bảo tàng: “Với số lượng hiện vật, tư liệu lớn, việc số hóa cần nguồn kinh phí không nhỏ cho việc đầu tư, nâng cấp hạ tầng số cũng như mua sắm thiết bị công nghệ. Tuy nhiên, do nguồn lực còn hạn chế, trước mắt chúng tôi chỉ có thể lựa chọn những hiện vật tiêu biểu, có giá trị nổi bật và số hóa từng bước”.
Về công tác số hóa - ứng dụng công nghệ số tại Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ, ông Nguyễn Bá Linh, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ, chia sẻ: “Thời gian qua, tỉnh Thanh Hóa và Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ cũng xác định công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng để quảng bá di sản. Những ứng dụng công nghệ cũng đã được triển khai. Một trong những khó khăn hiện nay chính là nguồn kinh phí cho chuyển đổi số tại di sản chưa có; hệ thống phần mềm, cơ sở dữ liệu chưa được liên thông, khó tích hợp với các nền tảng du lịch thông minh... Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ có quy mô lớn, nhiều hạng mục ngoài trời, hiện trạng di sản chịu tác động nhiều bởi thời tiết nên việc quét 3D, hay các ứng dụng công nghệ đòi hỏi phải có kỹ thuật cao, cần nguồn kinh phí đầu tư không nhỏ".
Ngay tại Khu Di tích lịch sử Lam Kinh - một trong những điểm đến thu hút lượng lớn du khách ghé thăm mỗi năm, câu chuyện số hóa di sản cũng không tránh khỏi những khó khăn. Ông Hồ Hà Hải, Trưởng Ban Quản lý khu di tích, thẳng thắn: “Với những di tích rộng lớn như Lam Kinh, việc số hóa cần đến nguồn kinh phí lớn, và phải thường xuyên được nâng cấp, bảo trì trang thiết bị. Bên cạnh đó, việc thiếu nguồn nhân lực có hiểu biết sâu về công nghệ thông tin cũng là một trong những hạn chế làm ảnh hưởng đến việc quản lý, phát huy hiệu quả các ứng dụng công nghệ”.
Khó khăn, hạn chế ở các di tích, di sản quan trọng trên địa bàn tỉnh là thực tế chung trong câu chuyện số hóa ở phần nhiều di sản hiện nay. Ông Nguyễn Văn Minh, Phó trưởng Phòng Kinh doanh công nghệ số (MobiFone Thanh Hóa) đồng quan điểm: “Thực tế, việc chuyển đổi số di sản cần đến nhiều yếu tố, trong đó cần có sự đồng thuận về chủ trương của chính quyền các cấp, các đơn vị quản lý trực tiếp di sản, di tích và sự hỗ trợ của chính quyền cấp trên. Thanh Hóa là địa phương có số lượng di sản lớn, hiện vật nhiều, đa dạng về chủng loại, cùng với đó còn có các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Việc số hóa đòi hỏi phải có thời gian, quy mô và đặc biệt là nguồn kinh phí tập trung cho công tác này”.
Bài và ảnh: Thu Trang
{name} - {time}
-
2025-08-23 07:51:00
Công nghệ “chắp cánh” cho di sản (Bài 2:): Số hóa phát huy giá trị di sản
-
2025-08-22 07:47:00
Công nghệ “chắp cánh” cho di sản (Bài 1): Khi hiện vật được số hóa
-
2025-08-21 14:02:00
Cần sớm nhân rộng mô hình “Học viện AI Việt Nam” trên toàn quốc