(vhds.baothanhhoa.vn) - Ông vốn họ Hà, sinh ra ở Hà Tây (nay là Hà Nội), lên 8 tuổi, được người cô ruột đem về xã Lan Khê, Nông Cống (nay là xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn) Thanh Hóa nuôi dưỡng và đổi theo họ của người chồng. Từ đó ông có tên là Nguyễn Hiệu (1674-1735).

Về đền thờ Tể tướng Nguyễn Hiệu

Ông vốn họ Hà, sinh ra ở Hà Tây (nay là Hà Nội), lên 8 tuổi, được người cô ruột đem về xã Lan Khê, Nông Cống (nay là xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn) Thanh Hóa nuôi dưỡng và đổi theo họ của người chồng. Từ đó ông có tên là Nguyễn Hiệu (1674-1735).

Về đền thờ Tể tướng Nguyễn Hiệu“Mái ngói được thay vào năm 2012 nên vẫn còn khá chắc chắn”, ông Nguyễn Chức cho biết.

Sống ở giai đoạn đất nước vừa qua chiến tranh Trịnh - Mạc đến chiến tranh Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Hiệu trực tiếp nhìn thấy hậu quả nặng nề là cảnh đồng ruộng xóm làng tàn phá; dân tình ly tán, thậm chí bị giết hại. Vốn là người thông minh, hiếu học từ nhỏ, 13 tuổi ông đã tham dự kỳ thi Ứng khoa ở Nông Cống đỗ hạng trung vào năm Đinh Mão (1687). Năm 16 tuổi ông dự kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ (1690) và đỗ hàng thứ tư. Năm Tân Mùi (1691), khi 17 tuổi, ông tiếp tục ra Thăng Long tham dự kỳ thi Hội, đỗ Tam Trường. Sau đó 6 năm (1697) ông được bổ giữ chức Huấn đạo phủ Kiến Xương khi 23 tuổi. Đến năm Canh Thìn (1700), ông tham dự kỳ thi Hội và đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

Con đường thi cử đỗ đạt hanh thông, vì thế cuộc đời làm quan của Nguyễn Hiệu đã kinh qua nhiều trọng trách. Sau khi đỗ tiến sĩ, ông được triều đình Lê – Trịnh cử làm Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, hàm chánh Thất phẩm. Đến năm 1703, ông được thế tử Trịnh Cương mời vào phủ chúa và giao cho chức Nội tán, chăm lo công việc nội phủ. Khi Trịnh Cương lên nối ngôi chúa, Nguyễn Hiệu được mời về kinh thành giữ chức Đô cấp sự trung hình khoa (1709), thăng làm Hồng lô Tự khanh (1714). Đặc biệt vốn là vị quan thanh liêm, chính trực, ông đã dâng sách “Trị bình” (1715); được chúa Trịnh xem khen và “cất nhắc ông dùng vào việc lớn của quốc gia”, phong lên chức Thiêm sai Bồi tụng. Kể từ đây cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Nguyễn Hiệu liên quan nhiều tới công tác tổ chức, tuyển chọn quan lại của triều đình. Ông không chỉ góp phần lựa chọn cho triều đình nhiều vị quan có đức, có tài mà ông còn minh oan cho một số người. Trong đó có trường hợp tiến sĩ Trần Đình Thu, bị nghi có gian lận trong thi cử, nên dù được triều đình cử giữ chức Cấp sự trung bộ Binh (Binh khoa) chúa vẫn quyết định cách hết quan chức, khoa giáp. Nguyễn Hiệu đã kịp thời can ngăn để chờ kết quả điều tra. Nhờ sự dũng cảm, công tâm của Nguyễn Hiệu, cuối cùng Trần Đình Thu được miễn tội. Gia phả của Nguyễn Hiệu hiện còn có ghi: “Cụ coi việc tuyển dụng quan lại trên 10 năm nhưng không hề xin, nhận, gửi của ai, chỉ tùy theo đức hạnh, tài năng, công lao và thâm niên để cắt đặt vị trí quan chức cho mọi người, lại miễn lệ nạp tiền, nạp gạo, sĩ phu ai ai cũng phục”.

Về đền thờ Tể tướng Nguyễn HiệuĐền thờ hiện lưu giữ gần 120 hiện vật, trong đó có 4 câu đối bằng gỗ có niên đại từ thế kỷ XVIII.

Cũng vì tin tưởng vào tài đức của Nguyễn Hiệu, chúa Trịnh giao ông dạy thế tử Trịnh Giang tức Trịnh Khương, phong cho ông chức Tả tư giảng và Hình bộ Tả thị lang (1717). Công lao đóng góp của ông nhiều, vì thế qua mỗi lần ban ân của triều đình, Nguyễn Hiệu đều được ban thưởng. Ông đã được ban tước hầu (1720), rồi sau là tước quận công (1722).

Năm 1726, Thanh Hóa bị nạn đói hoành hành, Nguyễn Hiệu là người được triều đình tin cẩn giao cho 14 vạn quan tiền ở kho Nhà nước để chẩn cấp cho dân. Với trọng trách của mình, ông vừa kịp thời cứu dân thoát đói đồng thời đảm bảo tiền bạc của Nhà nước không bị thất thoát. Năm 1727, ông được phong Đô Ngự sử; 1730 được cử giữ chức Thượng thư bộ Binh. Cũng chính trong năm 1930, do triều đình tăng tiền thuế, nhiều hộ đã bỏ làng đi trú ngụ. Nhìn thấy cảnh những người trong làng thì khốn đốn, các hộ trú ngụ thì nhà cửa vững vàng, ông nhận ra có sự không công bằng ở đây. Bởi vì lấy cớ là người trú ngụ mà họ được trốn tránh thuế. Ông đã tâu lên và xin không kể người trong làng, hay trú ngụ, cứ tính từng hộ để thu thuế đúng. Những kế sách của ông đã phần nào giúp cuộc sống người dân bớt chút khốn khó.

Cũng trong một đợt ban ân cho văn võ bách quan vào năm Nhâm Tý (1732), Nguyễn Hiệu đã được thăng làm Thiếu phó vinh phong Tá lý công thần. Đây là thời kỳ phát sinh nhiều bè đảng gây nhiều rối loạn, Trịnh Giang vốn tính hay nghi kỵ, sẵn sàng xử tử người nào trái ý. Nguyễn Hiệu là người dạy chúa từ thuở ấu thơ nhưng chỉ vì cố ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, khiến chúa cả giận mà giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình. Tuy vậy, chỉ sau đó 4 tháng, tức tháng 11-1734, khi Trịnh Giang được phong làm Đại nguyên soái thống quốc chính, trong cuộc ban ân, Chúa lại cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, vào phủ chúa làm việc.

Về đền thờ Tể tướng Nguyễn HiệuVăn bia công đức có từ thế kỷ XVIII.

Trở lại phủ chúa chưa được bao lâu, mới chừng 5 tháng, Nguyễn Hiệu bệnh nặng và qua đời khi mới bước vào tuổi 62. Sách “Đại Việt sử ký tục biên” chép về ông như sau: Nguyễn Hiệu là người trọng hậu, giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dẫn dắt kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình chủ bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh tặng chức Thái bảo và truy tặng Đại tư đồ, gia phong làm Phúc thần.

Về thôn 3, xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn đến thăm đền thờ Nguyễn Hiệu (dân gian gọi là phủ Đại Vương), được trò chuyện với ông Nguyễn Chức, cháu đời thứ 8 của cụ Nguyễn Hiệu, chúng tôi còn được biết từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, toàn xã có 3 người đỗ đại khoa (tiến sĩ) thì có 2 cha con nhà Nguyễn Hiệu, Nguyễn Hoàn.

Mặc dù đền còn lưu giữ 120 hiện vật quý, trong đó có bức trúc thư của Vua Lê Hiển tông tặng cha con Nguyễn Hiệu năm 1775 được chạm khắc trên gỗ, trang trí rất tinh xảo; 4 câu đối bằng gỗ có niên đại từ thế kỷ XVIII, lư hương bằng đá cổ, 20 bộ sắc phong... song di tích lịch sử cấp quốc gia đền thờ Nguyễn Hiệu hiện đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.

Chia sẻ những lo âu này, ông Lê Viết Lực, Phó Chủ tịch UBND xã Nông Trường, cho biết: Chúng tôi đã đề nghị được cấp một phần kinh phí để việc trùng tu, tôn tạo di tích có thể thực hiện sớm nhất. Cùng với công trạng của cụ Nguyễn Hiệu và những hiện vật lưu giữ, đền thờ cụ xứng đáng được khang trang và vững chãi hơn.

Bài và ảnh: CHI ANH



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]