Dũng tướng Nguyễn Đức Trung
Là con trai của Khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn (Duẫn), đồng thời là ông ngoại của vua Lê Hiến Tông, nhưng Thái úy Trinh Quốc công Nguyễn Đức Trung (1404 -1477) chưa bao giờ ỷ thế để lộng hành hay lười biếng. Nơi nào có binh biến, vua Lê Thánh Tông cũng gọi đến tên ông.

Trên nền đất nhà thờ từ năm 1549, con cháu dòng họ Nguyễn Hữu đã tôn tạo sạch đẹp.
Một dòng họ vinh hiển
Nhắc đến làng Gia Miêu (xã Hà Long) người ta nhắc đến dòng họ Nguyễn, có thủy tổ là Nguyễn Bặc, và con cháu sau này, nhiều người đã tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, phò tá Bình định vương Lê Lợi. Đây cũng là dòng họ có công trong việc mở cõi, mà người đầu tiên là Nguyễn Hoàng, rời Gia Miêu vào phương Nam gây dựng nên vương triều nhà Nguyễn (9 chúa, 13 vua), kéo dài 387 năm.
Với nhiều công trạng góp phần làm nên thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn - lập nên vương triều nhà Lê, công thần khởi nghĩa Lam Sơn Nguyễn Công Duẩn, người con của đất Gia Miêu xứ Thanh được vua Lê tin yêu. Với số ruộng đất được vua ban, dòng họ Nguyễn làm chủ cả một vùng Gia Miêu rộng lớn, con cháu mỗi ngày thêm đông. Nối nghiệp cha, các con của Nguyễn Công Duẩn cũng nuôi chí lớn. Trong đó, người con trai cả là Nguyễn Đức Trung từ khi còn nhỏ đến lúc lớn lên luôn tỏ ra là người có tài, có chí khí.
Nguyễn Đức Trung sinh ra và lớn lên trong khoảng thời gian thịnh vượng của vương triều Lê. Trước mặt ông là các bậc tiên hiền, xung quanh là nhiều vị quan thanh liêm một lòng trung quân. Nguyễn Đức Trung làm quan trải qua 3 triều vua. Đặc biệt, năm 1461, người con gái thứ 2 tài sắc vẹn toàn có tên là Nguyễn Thị Huyên đã được vua Lê Thánh Tông tuyển vào làm Sung nghi ở cung Vĩnh Ninh, sinh hoàng trưởng Tranh (sau này lên ngôi lấy miếu hiệu là Hiến Tông). Kể từ khi Nguyễn Thị Huyên sinh hoàng tử, thế lực họ Nguyễn trong triều đình nhà Lê càng lớn. Song không vì thế mà quan đại thần Nguyễn Đức Trung sinh lòng kiêu ngạo. Ông hết lòng phò vua, giúp nước. Bởi vậy mà được cả vua Lê và quần thần trong triều đình kính nể (theo sách Gia Miêu ngoại trang và ông tổ các vua chúa dòng họ Nguyễn).
Người có công đưa Lê Thánh Tông lên ngôi
Sau khi Vua Lê Thái Tông băng hà năm 1442, Lê Nhân Tông lên ngôi Hoàng đế vào ngày 8/12/1442, khi mới hơn 1 tuổi vì thế quyền nhiếp chính ban đầu được giao cho Thái hậu Nguyễn Thị Anh.
Theo sử cũ, cuối năm 1459, Lê Nghi Dân đã cầm đầu nhóm phản loạn giết anh trai là vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Thái hậu Nguyễn Thị Anh, sau đó tự lên ngôi vua xưng là Lạng Sơn vương. “Sau 8 tháng làm vua, Nghi Dân tin dùng bọn gian nịnh, giết hại bề tôi cũ, pháp chế của tổ tông đổi thay hết thảy, người oán trời giận”.

Trong số 13 sắc phong được dòng họ lưu giữ, có 9 sắc phong các đời vua ban cho Trinh Quốc công Nguyễn Đức Trung.
Trước sự bất đạo của Lê Nghi Dân, các đại thần trong triều không phục nên đã cùng nhau họp bàn binh biến lật đổ vua Lê Nghi Dân. Sự việc bị bại lộ, tất cả đều bị giết. Sau vụ đảo chính không thành này, một số quan lại khác tiếp tục kế hoạch lật đổ, trong đó có Điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung.
Trong vai trò tổ chức nắm giữ đội quân cấm binh của triều đình, sau khi bề tôi thân cận của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban đã bị chém chết cùng nhiều người khác, Nguyễn Đức Trung đã cho người rước Hoàng tử Tư Thành (tức Lê Thánh Tông) lên ngôi vua.
Sau khi dẹp loạn Nghi Dân, triều đình ban thưởng, Nguyễn Đức Trung được xướng tên cùng với 49 người khác, công hàng thứ 2. Việc phế vua và lập vua mới của Nguyễn Đức Trung và một số cận thần không được chính sử chép nhiều. Song công lao của ông với nhà Lê Sơ là đã tìm ra vị vua sáng, mở ra một thời kỳ văn trị võ công rực rỡ ở nước ta. Hậu thế đã không quên nhắc về ông với sự kính trọng về một vị tướng tài, một trung thần hết lòng vì giang sơn, một lòng vì trăm họ, sẵn sàng mang tiếng xấu để phò giúp minh quân lên ngôi.
Năm 1467, khi đang giữ chức Nam đạo phủ đô đốc đồng tri, Nguyễn Đức Trung được vua Lê Thánh Tông sai đem quân đi dẹp loạn ở vùng Yên Bang. Trước đó, triều đình đã phái nhiều tướng dẫn quân đến đây nhưng đều bị thua. Yên Bang là nơi xa xôi, lại có vị trí chiến lược quan trọng, không thể không dẹp yên. Vâng lệnh vua “Trẫm e rằng, trong việc giữ yên biên cương dẹp giặc, không có ai hơn khanh”, Nguyễn Đức Trung đến An Bang trong tình thế vô cùng nguy cấp, giặc gần như đã làm chủ vùng đất này, trong khi đó quân triều đình chẳng còn mấy người. Để dẹp yên giặc, cùng với việc ở lại quan sát tình thế, Nguyễn Đức Trung gửi sớ về triều đình xin thêm viện binh. Chỉ một năm sau đó, dưới sự chỉ huy của dũng tướng Nguyễn Đức Trung, giặc cỏ ở Yên Bang đã bị đánh dẹp.
Sau chiến công dẹp giặc ở Yên Bang, Nguyễn Đức Trung càng được vua Lê tin tưởng. Bấy giờ, ở hương Lam Sơn xứ Thanh, đất căn bản của nhà Lê bị nhiều quan tham chiếm làm của riêng, vì vậy vua Lê Thánh Tông lại sai Nguyễn Đức Trung về xứ Thanh. “Vua bảo Đức Trung: Lam Kinh là đất căn bản lăng vua, không thể ví như nơi kinh sư khác được. Mới rồi bọn thế gia hay làm trái lễ phép, coi thường pháp luật, chiếm lấy đất công làm của tư, đến nỗi các thân vương, công chúa cũng không có chỗ cắm dùi. Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng lấy phép tắc mà bảo trước, để cho họ nhà vua ngày một nhiều thêm mà vẫn có chỗ nương mình... Giới hạn đã định rồi, ai dám trái phạm thì theo luật trị tội. Nhưng nói dễ, làm khó, nên trẫm muốn sai khanh về Thanh Hóa làm trấn thủ để xem xét mọi việc” (sách Địa chí huyện Hà Trung).
Khi quan đại thần Nguyễn Đức Trung về Thanh Hóa, ông nghiêm khắc xử lý việc ở hương Lam Sơn khiến nhiều kẻ cường hào tham lam đều sợ hãi. Nhờ đó, dân chúng được vỗ về, đồng ruộng được quan tâm, mùa màng liên tục bội thu. Người dân nhắc đến ông với lòng quý mến.
Năm 1471, ông theo Lê Thánh Tông dẫn quân bộ đi đánh Chiêm Thành, thắng lớn, mở rộng đất đai phía Nam nước Đại Việt. Khi trở về ông được phong chức Thái úy, tước hiệu Trinh quốc công, làm Đô ty Thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1472, vì tuổi già sức yếu, ông cáo lão về nghỉ. Ông mất năm 1477, thọ 73 tuổi.
Ở thôn Mậu Thịnh, xã Ba Đình (Thanh Hóa), Thái úy Nguyễn Đức Trung được phong làm Thành hoàng làng, ngoài ra, con cháu trong dòng họ thờ ông trong nhà thờ họ Nguyễn Hữu. Ông Nguyễn Hữu Lực, hậu duệ đời thứ 15 của Trinh quốc công, cho chúng tôi biết: Nhà thờ hiện có 13 đạo sắc phong, trong đó riêng cụ Nguyễn Đức Trung được các đời vua ban 9 đạo sắc. Và ông Lực tự hào giới thiệu thêm: Là một tướng tài, chinh chiến khắp mọi nơi, vì thế mà đến nay cụ còn được thờ phụng ở Huế và ở Quảng Ninh. Ở thôn Mậu Thịnh, khi tuổi cao sức yếu, cụ đã chọn nơi đây làm nơi an trú, và lập dựng làng.
"Hằng năm, vào ngày 20 tháng 8 âm lịch, con cháu họ Nguyễn khắp nơi từ Quảng Ninh, Hải Phòng đến Quảng Nam đều trở về hương khói. Cứ 5 năm thì dòng họ Nguyễn chúng tôi lại tổ chức đại lễ, giỗ cụ cũng chính là hội của người dân trong thôn”, ông Nguyễn Đình Quý, trưởng thôn Mậu Thịnh cho biết.
(Bài viết có sử dụng dữ liệu trong gia phả họ Nguyễn Hữu làng Mậu Thịnh; Địa chí huyện Hà Trung và một số tài liệu khác)
Bài và ảnh: Chi Anh
{name} - {time}
-
2025-11-30 09:36:00Phạm Bân - Tấm gương y đức ngời sáng
-
2025-11-29 10:02:00Đông các Đại học sỹ Lê Nhân Quý
-
2025-11-27 15:44:00Đảng viên Nguyễn Huy Súc: Làm việc tốt - Nói điều hay - Sống nghĩa tình






