(vhds.baothanhhoa.vn) - Tục ăn chạ của làng tôi chỉ còn trong hồi ức. Ngôi đình thiêng của làng nay chỉ còn những tảng đá chân cột trên khoảng đất dây rừng chằng chịt.

Tin liên quan

Đọc nhiều

Về Lùng Theenh ăn chạ

Tục ăn chạ của làng tôi chỉ còn trong hồi ức. Ngôi đình thiêng của làng nay chỉ còn những tảng đá chân cột trên khoảng đất dây rừng chằng chịt.

Bút ký của Phạm Vĩnh Sơn

1. Cậu tôi, người em họ của Mế, năm nay đã là bậc trưởng lão trong làng, thường giải thích cái tên làng chúng tôi một cách thấu đáo. Cậu bảo Lùng Theenh là tên gốc theo cách phát âm của mường dưới quê tôi. Người mường Khô, mường Mẩm phát âm thành Lùng Kheenh. Sau Cách mạng Tháng Tám nhiều người dưới xuôi lên định cư, làng không nói tiếng Mường mà nói tiếng chung cho dễ giao tiếp và thể hiện tinh thần đoàn kết Kinh - Mường. Lùng Theenh được gọi và viết trong giấy tờ hành chính là làng Sanh, có người phát âm nhẹ gọi chệch thành làng Xanh, nhưng phiên âm từ tiếng Mường sang tiếng Việt phải là Sanh mới đúng (Sanh giống như sinh).

Làng ở cách thị trấn huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa non 10 km về phía Tây, trên đường 217 đi Suối cá thần Cẩm Lương. Từ đường cái, đi bộ, các bà ăn vừa nhạt miếng trầu thì vào đến làng. Vượt qua cánh đồng hút một tầm mắt trông làng như hình cánh cung. Một phần dựa vào đồi cây, phần kia quay lưng ra sông Mã.

Tuổi thơ của tôi gắn với triền sông, nơi tôi theo cô ra bến giặt, tập bơi vào những tà chiều hè, rửa lá dong và giặt tất niên vào 25 tháng Chạp trong cái đông đúc, rộn ràng của bến ngày tất niên và xuýt xoa cái lạnh thống se sắt. Đây cũng là nơi mùa nước lũ làng phải nổi trống khoán độ lụt, củi cành, nhà cửa từ lũ thượng nguồn đổ về kìn kịt, người làng tranh thủ vớt củi để đun quanh năm, có khi còn vớt được xác những con trâu đực bị lũ cuốn trương phềnh, phải kéo lên bãi đem chôn, có khi cả một nửa mái nhà sàn nhà ai trên thượng bị lũ cuốn vật vờ như bóng ma sấp ngửa cả buổi giữa sông, cảnh tượng đó làm cho người làng xót tiếc, la ó, đau cái nỗi đồng bào mình khốn đốn đâu đó trên thượng nguồn.

Từ bến nước này nhìn sang bờ bắc sông Mã ta thấy có quãng con sông ăn sâu hơn vào phần bờ gọi là vực Gỗ. Nơi cất giữ câu chuyện thấm đẫm màu sắc truyền thuyết hư thực lẫn lộn. Khởi phát cho tục ăn chạ của làng tôi và làng Tray, xã Cẩm Giang.

Câu chuyện kỳ thú này tôi đã nghe nhiều người già trong làng kể lại nhưng nghe có hệ thống hơn cả là câu chuyện từ cậu tôi. Cậu là Phạm Văn Chương, sinh 1930, đến nay cả tuổi mụ tròn chín chục mùa măng bương. Khi tôi gặp và hỏi chuyện làng quê xưa, cậu đều kể rất lâu, rất dài và kỹ những câu chuyện cũng đã già nua theo thời gian. Câu chuyện có khi được kể bên bếp than tháng một tháng Chạp lép bép ngô nướng cũng có khi vào dịp đầu năm tôi đến mừng tuổi cậu. Ở tuổi đại thọ, cậu tôi vẫn tinh anh, tỉnh táo lạ thường. Đặc biệt cậu có giọng kể, giọng nói còn rền nẩy, mỗi lúc kể đến đoạn tế lễ ông lại đổi ngữ điệu thướng lên cái giọng ông ậu đặc thù, vừa cao vừa dài hơi, gợi không gian và thời gian vời vợi. Những lúc đó mắt ông nhìn vào xa xăm, vừa thành kính vừa say sưa như quên bẵng năm tháng, tuổi tác, chỉ còn hiện hữu và tươi đẫm trong không khí tưng bừng của hội làng, trong tiếng chiêng, trống dàm binh bung lan rộng mặt sông, gọi hai làng vào chạ.

2. Chuyện kể, làng Sanh tôi ở ven sông, có đồi đất và đồng ruộng mầu mỡ. Người làng Sanh có nghề đánh bắt cá sông. Mùa nước cạn quăng chài, săn tôm, cào hến. Mùa nước lớn chực chườm cá vào vụng đẻ, kéo vó. Nước rút để lại vụng đầm, làng ới nhau “đánh đầm” cơ man là tôm cá. Cá sông, hến sông, tôm sông là nguồn thực phẩm lớn của làng. Khi chưa có làng chài, người làng tôi làm chủ cả một dải bờ sông dài, nhiều chỗ thoải, đánh bắt khá thuận lợi.

Một hôm, sau đêm mưa, như thường lệ, người đàn ông trong làng ra kéo vó. Mẻ vó cất lên chỉ được một quả trứng to. Lấy làm lạ ông đem về đưa vào ổ cho gà ấp. Kỳ lạ thay quả trứng nở ra một con thuồng luồng. Hằng ngày con vật lạ cứ quấn quýt lấy ông. Khi đối diện ông gọi thuồng luồng là con, xưng bố. Thời gian trôi qua con vật to lớn làm ông cảm bất thường, lo sợ. Một hôm nhân lúc con vật cuộn mình trên đầu cày theo ông ra đồng, ôngcầm dao sắc mới mài phạt mạnh vào con vật nhưng chỉ trúng khúc đuôi. Con vật cự lại định hại ông. Thấy vậy ông liền đổi giọng, thanh minh: Con hiểu cho bố, nay tuổi đã già, sức đã yếu, không nuôi nấng con được nữa, nay bố cho con về với sông nước. Làng ở gần Vực Gỗ, Vực Nghè, Vực Tôm... con muốn ở đâu? Hỏi rồi ông xin âm dương được phép nên thả thuồng luồng xuống Vực Gỗ gần làng Tray. Nhưng con vật thành tinh quấy nhiễu dân mấy làng không yên. Hai làng phải cùng nhau hợp lực mới giết được thuồng luồng ma. Sau trận huyết chiến, con vật bị giết, người làng phải đắp mười ba cái chiếu mới che hết thân nó. Hai làng cùng đem chôn cất và từ đó sống yên bình. Và cũng từ đó hai làng Tray và Theenh kết nghĩa huynh đệ. Hai làng ăn thề và giao ước từ nay coi nhau như anh em ruột thịt, đời đời kiếp kiếp thương yêu đùm bọc, giúp đỡ vô điều kiện, và nữa tuyệt đối trai gái hai làng không yêu, không được lấy nhau. Hằng năm cứ vào tháng Giêng, sau cai hạ (hạ cây nêu) hai làng sẽ tổ chức ăn chạ. Ngày 12 ở làng tôi, làng Tray sẽ đáp lễ vào ngày 16 âm lịch.

3. Việc ăn chạ hai làng được chuẩn bị chu đáo. Khi mùa màng, tết nhất xong, làng xóm dọn dẽ quang quẻ, khoảng đất trước làng gọi là Mổ lớn được dọn sạch cỏ, các xới chơi được trang trí. Ngày 11 tháng Giêng chủ tế làm lễ xin động thổ, chọn trai tân khỏe đẹp chuẩn bị chỗ đặt bài vị thần cho ngày mai.

Sáng sớm ngày 12 tháng Giêng, trong tiếng trống chiêng, trống dàm báo tin vui, đoàn quan viên làng chỉnh tề lễ phục màu vàng, khăn xếp đỏ đi theo hàng về phía bến sông đón đoàn quan anh làng Tray sang lễ và ăn chạ. Tiếng chiêng, trống, sắc áo rựcrỡ trong sớm xuân đầy hứng khởi và chờ đợi. Khi đoàn thuyền làng bên cập bến, đội làng bên sắc áo tím, khăn đen lên dốc sông, hai bên tay bắt mặt mừng, hai làng đều gọi nhau là quan anh, xưng em. Câu hát câu xường chào, mời nhau chén rượu lễ rồi cùng lên đình chấp lễ. “Nhà tạo chiếu ngang, nhà lang chiếu dọc” đã trải ngay ngắn, người chủ tế dẫn dắt việc dâng cỗ, thượng hương, châm tửu, sau mỗi lời nhắc, một tiếng “phèng” đáp. Xongba lần điểm, chủ tế bắt đầu khấn “Đại Nam quốc, Thanh Hóa tỉnh, Cẩm Thủy huyện, Cẩm Bình xã”... sau khi xin âm dương biết thánh đã nhập vị, mâm cỗ đặt trên bàn án thư đi trước, chủ tế đội bài vị và hai người đi chầu hai bên; bên trái trống, bên phải chiêng gióng nhịp đi về phía Mổ lớn hành lễ.

Lễ tế trang trọng có đầu lợn cắp đuôi đặt trên cỗ xôi lớn diễn ra vừa tàn tuần nhang. Phần hội bắt đầu. Các trò chơi dân gian được người chủ tế cho phép về sới. Các chị ném còn, đu dây. Trong lúc còn tung lên một câu ca, một điệu cười cũng vang theo. Đánh khăng của bọn trẻ, vật đôi của lực sĩ. Đánh mảng của các bà các cô. Trong trò chơi hay thi đấu nhất nhất đều trọng nể, không ăn thua,coi được vui là phần thưởng. Các trò chơi được diễn ra khi chiêng trống hội cứ bung binh rộn rã, âm vang những giai điệu thanh bình.

Việc ăn cỗ ngày chạ để lấy may, làm lệ chứ không trọng phải linh đình, no nê được lấy từ quỹ đinh của làng. Ai cũng dùng lời vui, ý hay để đối đãi với nhau, không khí anh em, bè bạn được hội ngộ, tương giao hào hứng như món quà mùa xuân. Họ chúc nhau năm mới an lành, ăn nên làm ra, tình nghĩa thuận hòa.

Lễ chạ kết thúc bằng việc chia tay và đưa tiễn làng anh ra thuyền vượt sông. Những lời chào giã biệt, hẹn hò, những câu xường chúc tụng “thương thiết thương nồng” lan trên mặt nước sông khói sương. Đoàn đưa tiễn đứng mãi nơi bến, trống chiêng trống dàm vọng mãi cho đến lúc đoàn làng anh sang sông, lên bờ, những bàn tay vẫy chào lưu luyến như không muốn rời.

Tục ăn chạ của làng tôi chỉ còn trong hồi ức của cậu, của Mế. Ngôi đình thiêng của làng nay chỉ còn những tảng đá chân cột trên khoảng đất dây rừng chằng chịt sau một trận hỏa hoạn không biết nguyên do. Cùng với sự thay đổi của cuộc sống, ngôi đình chỉ còn trong tưởng niệm của người già. Trong câu chuyện khôi phục những nét đẹp văn hóa của làng, anh Phạm Văn Hưng, một người làm công tác văn hóa lâu năm, tha thiết muốn khôi phục lại ngôi đình. Người bạn cùng tuổi của tôi là anh Phạm Văn Lương, Bí thư thôn cũng gật gù tán đồng khi trao đổi về ý nguyện muốn khôi phục ngày ăn chạ, kết lại tình nghĩa thiêng của hai làng tuy đứt đoạn nhưng vẫn gìn giữ lời nguyền bấy nay. Trong không khí nông thôn đổi mới, việc khôi phục nét đẹp xưa sẽ làm cho làng xã gắn bó hơn, tốt lành hơn.

Trong hơi khí ngày đầu đông, chúng tôi đứng trên bến nhìn ra bờ sông bên làng quan anh với con đường ven bờ sông thấp thoáng sau bóng cây nay đã liên thôn trải nhựa, dưới bóng dãy núi chạy dài cao ngất xanh màu rừng tái sinh mỗi người hồi tưởng và theo đuổi một ý nghĩ. Tôi cứ nghe đâu đây âm vang bên vách núi tiếng trống chiêng, trống dàm và những con thuyền chở đoàn người mặc sắc phục tím, đội khăn xếp đen của làng quan anh đang hướng về phía bờ tôi đứng như sắp cập bờ.

Phạm Vĩnh Sơn


Phạm Vĩnh Sơn

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]