(vhds.baothanhhoa.vn) - Trên bản đồ khảo cổ học Việt Nam, hang Con Moong có một dấu ấn đặc biệt. Bởi lẽ trong suốt hàng vạn năm, di chỉ khảo cổ này đã giữ trong lòng nó vô số lớp trầm tích văn hóa, có khả năng khắc họa nên bức tranh sống động về sự tồn tại của loài người.

Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Hang Con Moong - “thư viện khảo cổ” về loài người

Trên bản đồ khảo cổ học Việt Nam, hang Con Moong có một dấu ấn đặc biệt. Bởi lẽ trong suốt hàng vạn năm, di chỉ khảo cổ này đã giữ trong lòng nó vô số lớp trầm tích văn hóa, có khả năng khắc họa nên bức tranh sống động về sự tồn tại của loài người.

Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Hang Con Moong - “thư viện khảo cổ” về loài người

Di chỉ hang Con Moong

Được phát hiện lần đầu năm 1974, hang Con Moong (thuộc địa bàn bản Mọ, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành cũ; nay là xã Thành Vinh, tỉnh Thanh Hóa) đã thu hút được sự quan tâm của giới khảo cổ trong và ngoài nước. Kết quả khai quật, nghiên cứu qua nhiều năm của Viện Khảo cổ học Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khảo cổ học – Dân tộc học Novosibirsk (Viện Hàn lâm Khoa học Nga), các nhà khoa học đã đi đến thống nhất về niên đại sớm nhất của hang Con Moong là cách ngày nay khoảng 40.000 đến 60.000 năm.

Hang có hình tang trống, hai cửa thông nhau, chiều dài 40m, chỗ rộng nhất lòng hang khoảng 9m, mặt bằng di chỉ hang rộng trên 250m2. Qua nghiên cứu bước đầu, giới khảo cổ xác định hang Con Moong đã trải qua 4 giai đoạn phát triển về văn hóa; đồng thời là một trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. Địa tầng hang dày 9,5m, gồm 10 lớp cấu trúc khác nhau, cụ thể: từ lớp 1 đến lớp 6 tìm thấy công cụ lao động, xương cốt động vật, vỏ nhuyễn thể; từ lớp 7 đến lớp 10 không gặp dấu tích động thực vật, nhưng có mặt công cụ đá quartz tập trung nhất ở lớp 10 (độ sâu -8,5m đến -9,5m).

Các nhà khảo cổ cũng đã xác định dấu vết người nguyên thuỷ cư trú trên diện tích chừng 100 m2, tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thời văn hoá Sơn Vi đến văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Dấu vết này được thể hiện qua nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt. Đặc biệt, đời sống người nguyên thủy được phản ánh đậm nét qua các công cụ bằng đá cuội, với kỹ thuật chế tác đã có sự phát triển đáng kể. Đó là các công cụ có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn. Mặc dù số lượng mảnh tước được tìm thấy ở hang Con Moong được cho là không nhiều, song phần lớn đã được gia công để có thể sử dụng một cách đa dạng như cắt, chặt, nạo các loại thịt, xương thú, tre, nứa, gỗ. Không dừng lại ở đó, chủ nhân của hang Con Moong còn chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú với kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác khá cao.

Ngoài ra các dấu vết về xương, răng động vật được phát hiện được khá nhiều. Đặc biệt, trong lớp văn hoá Sơn Vi ở hang Con Moong còn tìm thấy dấu vết của bếp lửa có hình gần tròn, đường kính tới 4m, bên cạnh mùn thực vật và hạt trám. Đồng thời, phát hiện được 3 mộ táng chôn theo tư thế nằm nghiêng co bó gối, được bôi thổ hoàng, có một mộ chôn theo công cụ nạo. Không dừng lại ở đó, hang Con Moong còn là “bức tranh” về sự biến chuyển của cổ khí hậu, môi trường khu vực xung quanh hang và sự thích ứng của cư dân cổ Con Moong từ 6 vạn năm đến 7 nghìn năm trước. Sự xuất hiện của công cụ đá ở lớp 10, có thể khẳng định con người đã có mặt ở hang Con Moong từ rất sớm, nhưng không thường xuyên khi khí hậu trở nên lạnh nhất. Sau thời kỳ băng hà, cách đây 18-25 nghìn năm, khí hậu ấm dần, con người cũng cư trú ở hang thường xuyên hơn và chuyển dịch nhiều về phía cửa hang. Sau 7 nghìn năm, về cơ bản con người bắt đầu rời hang để chiếm lĩnh các vùng đất mới. Đây cũng là thời điểm kết thúc gia đoạn mưa nhiều, mở đầu thời kỳ biển lùi ở vùng đồng bằng ven biển Thanh Hóa và xác lập các nền văn hóa biển đầu tiên trong thời kỳ tiền sử.

Quá trình khảo sát và khai quật trong khu vực, các nhà khoa học còn phát hiện ra một hệ thống các hang động vệ tinh xung quanh hang Con Moong, bao gồm hang Lý Chùn, hang Bố Giáo, hang Mang Chiêng, hang Diêm, hang Lai, di tích đất đắp núi Đầu Voi. Tiến hành khai quật tại hang Diêm, các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 mộ táng; trong đó mộ 1, các xương tập trung thành cụm khá rộng và đều bị vỡ vụn, bị cháy; mộ 2, các xương còn nguyên hình dạng nhưng trật tự xương lộn xộn, một số xương có vết thổ hoàng nên đây là mộ cải táng; mộ 3, còn khá đủ xương, là mộ hung táng, nằm ngửa, hai chân co, hai tay đặt trên ngực. Ngoài ra, trong hang Diêm còn nhiều hiện vật đá, gốm, vết tích bếp, vật thải sau bữa ăn ...

Những phát hiện kể trên này là những lát cắt quan trọng, phản ánh quá trình cú trú lâu dài của cư dân Con Moong cũng như quá trình phát triển của xã hội người nguyên thuỷ trên đất Thanh Hoá. Là một trong những nhà khoa học tích cực tham gia vào quá trình khảo cổ, nghiên cứu hang Con Moong, chuyên gia Khảo cổ học PGS.TS Nguyễn Khắc Sử đã chỉ ra: Các di tồn văn hóa còn lưu lại trên địa tầng hang Con Moong đã kể cho hậu thế câu chuyện hết sức lý thú về truyền thống cư trú hang động, truyền thống sử dụng công cụ đá và sự tiến triển về loại hình, kỹ thuật chế tác công cụ; về sự biến đổi của khí hậu và sự thích ứng của con người trong suốt nhiều vạn năm. Đó trước hết là câu chuyện về sự thay đổi từ kỹ nghệ công cụ đá, với sự độc tôn của kỹ nghệ mảnh tước đá quartz hơn 6-4 vạn năm trước, sang kỹ nghệ cuội ghè và mảnh tước giai đoạn 4-2 vạn năm, để rồi xác lập ở đây các yếu tố văn hóa đá cũ Sơn Vi, đá mới Hòa Bình, đến văn hóa sau Hòa Bình.

Với những lớp trầm tích văn hóa còn nằm sâu trong lòng di tích và cả những hiện vật đã khai quật, nghiên cứu, được giới chuyên môn khẳng định giá trị, có thể nói hang Con Moong và các di tích phụ cận là một bảo tàng khảo cổ học hết sức sống động hay một pho “sử thi” đồ sộ bằng di vật về lịch sử hình thành, tiến hóa và phát triển không ngừng của loài người. Từ hang Con Moong và các di tích phụ cận, các nhà khoa học đã từng bước vén lên bức màn lịch sử loài người, từ sơ kỳ đồ đá cũ đến hậu kỳ đồ đá mới ở Việt Nam. Là di tích cổ xưa nhất và có giá trị lịch sử, khảo cổ đặc biệt quan trọng, di tích khảo cổ học hang Con Moong và các di tích phụ cận đã được vinh danh là di tích Quốc gia đặc biệt. Sự kiện này đã một lần nữa khẳng định Thanh Hóa là “cái nôi” của loài người; đồng thời cũng đặt ra cho cấp ủy, chính quyền địa phương trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản phục vụ công tác nghiên cứu khảo cổ.

Khôi Nguyên

Tin liên quan:
  • Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Hang Con Moong - “thư viện khảo cổ” về loài người
    Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Di chỉ Núi Đọ - Từ “dấu ...

    Vùng đất địa linh nhân kiệt xứ Thanh là nơi hội tụ đậm đặc các di tích khảo cổ từ thời tiền sử, với những “gương mặt văn hóa” rất tiêu biểu như di chỉ Núi Đọ, hang Con Moong, di chỉ văn hóa Hoa Lộc và đặc biệt là văn hóa Đông Sơn. Đáng quý hơn, các di tích đã và đang được chính quyền và người dân chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị. Qua đó, góp phần tạo nên sức mạnh nội sinh cho phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội địa phương.


Khôi Nguyên

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]