(vhds.baothanhhoa.vn) - Văn tài nổi tiếng từ nhỏ, lớn lên thi đỗ tiến sĩ dưới triều Vua Tự Đức, Bảng nhãn Phạm Thanh - người con của vùng đất Trương Xá, nay là xã Hòa Lộc (Hậu Lộc) được người đời tôn xưng là “Quốc triều Á trạng”. Ông trở thành người đỗ đại khoa cao nhất của Hậu Lộc từ trước đến bấy giờ (theo sách “Văn tài võ lược xứ Thanh”).

Bảng nhãn Phạm Thanh: “Quốc triều Á trạng” thời Nguyễn

Văn tài nổi tiếng từ nhỏ, lớn lên thi đỗ tiến sĩ dưới triều Vua Tự Đức, Bảng nhãn Phạm Thanh - người con của vùng đất Trương Xá, nay là xã Hòa Lộc (Hậu Lộc) được người đời tôn xưng là “Quốc triều Á trạng”. Ông trở thành người đỗ đại khoa cao nhất của Hậu Lộc từ trước đến bấy giờ (theo sách “Văn tài võ lược xứ Thanh”).

Bảng nhãn Phạm Thanh: “Quốc triều Á trạng” thời NguyễnBia, mộ Bảng nhãn Phạm Thanh tại quê nhà Trương Xá.

Hậu Lộc, vùng đất cổ nằm ở Đông Bắc xứ Thanh. Nơi đây, có trấn thành Duy Tinh thời Bắc thuộc. Cũng vùng đất này, từng là nơi chứng kiến nhiều trận chiến oanh liệt của nghĩa quân Bà Triệu chống lại kẻ thù xâm lược. Trong lịch sử dân tộc, Hậu Lộc được biết đến với nhiều tên tuổi văn tài, võ tướng lưu danh sử sách. Và Bảng nhãn Phạm Thanh làm quan dưới thời nhà Nguyễn được biết đến là nhà nho khí tiết, học rộng, đỗ cao…

Ngôi mộ nhỏ đơn sơ của vị Bảng nhãn nằm trong không gian làng quê yên bình. Ông tài hoa song cuộc đời lại nhiều sóng gió, lắm nỗi ưu tư.

Theo tài liệu lưu giữ tại dòng họ Phạm ở Trương Xá, Phạm Thanh sinh ra trong gia đình có truyền thống đỗ đạt, làm quan. Ông cố nội làm quan trong vùng đã có công bắc cầu phao cho voi của Vua Quang Trung vượt sông ra Bắc đại phá quân Thanh. Về sau, bố ông là Phạm Phổ làm Bố chánh tỉnh Tuyên Quang. Tuy nhiên, trong một cuộc khởi nghĩa chống triều đình nhà Nguyễn của quân phiến loạn, trước tình thế nan giải, do lo sợ, Phạm Phổ đã chọn cách tự tử và điều này khiến triều đình nhà Nguyễn khép tội.

Trước biến cố đó, mẹ của Phạm Thanh, một người phụ nữ tần tảo đã vượt qua những khó khăn, quẫn bách hoàn cảnh của gia đình để nuôi dạy con ăn học. Khi ấy, Phạm Thanh dù còn trẻ tuổi song ngày ngày ngoài việc giúp mẹ kéo sợi kiếm tiền còn chăm chỉ tầm sư học chữ. Với tài năng trời phú, Phạm Thanh được thầy giáo Nhữ Bá Sỹ - vị danh sư tài cao đức trọng quý mến, nhận đỡ đầu và dốc lòng dạy dỗ. Về sau, Phạm Thanh đã trở thành con rể của thầy giáo Nhữ Bá Sỹ.

Phạm Thanh văn tài nổi tiếng từ nhỏ. Tuy nhiên, con đường thi cử lại không thuận lợi. Sách Địa chí Hậu Lộc viết về ông: “Năm 21 tuổi (1842) Phạm Thanh đỗ tú tài, năm 1846 đỗ cử nhân lần thứ nhất (lần này ông đỗ hụt vì sau khi công bố và trao giải lại có lệnh phúc khảo và bãi bỏ, không rõ lý do. Theo ý kiến của một số người thuộc dòng họ Phạm ở Trương Xá (Hòa Lộc) thì lý do chính vì Phạm Thanh là con Phạm Phổ nên bị triều đình nghi kỵ). Sau lần đỗ hụt, Phạm Thanh bất bình, chán nản không thiết học hành. Bà mẹ ông vừa tìm cách khuyên giải, động viên, vừa nghiêm khắc yêu cầu ông không được nản chí ngã lòng”.

Năm 1848, Phạm Thanh đỗ đầu kỳ thi Hương, nổi tiếng khắp trường thi xứ Thanh. Vượt qua bốn kỳ thi Hội, năm 1851 ông tham gia thi Đình, đỗ Đình nguyên xếp ngôi Bảng nhãn. “Mặc dù triều Nguyễn không lấy học vị Trạng nguyên nhưng ông vẫn được tôn xưng là “Quốc triều Á trạng”. Khi vinh quy bái tổ, nhà vua ban cho ông nhiều vật phẩm và một bè gỗ lim lớn để làm nhà thờ họ” (Sách Địa chí Hậu Lộc).

Tương truyền, sinh thời Phạm Thanh là người tài hoa xuất chúng, ý chí vô cùng kiên cường, không tin vào chuyện quỷ thần, chỉ tin ở chính mình. Trước kỳ thi Hương, ông có việc ra Bắc, qua đền Trấn Vũ. Đêm đến ngủ tại đền, ông mộng thấy thần báo mộng kỳ thi này ông không đỗ. Sáng dậy, ông ghi lại bài thơ Nôm lên bức tường đền trước khi rời đi: “Tuổi trẻ nhà nòi chí tiến xa/ Kinh hiền truyện thánh đọc lầu qua/ Thần nhân sao biết việc người được/ Nhất quyết khoa này giật thủ khoa”. Quả nhiên, khoa thi ấy ông đỗ Giải nguyên (theo sách Văn tài võ lược xứ Thanh).

Với tài năng xuất chúng, ngay từ buổi đầu làm quan, Bảng nhãn Phạm Thanh đã được làm việc ở Nội các - cơ quan giữ việc biên soạn chiếu, sắc, cáo dụ cho vua. Về sau, ông làm đến chức Tham tri Bộ Hộ. Khi Phạm Thanh còn làm quan trong triều đình nhà Nguyễn cũng là lúc thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng (năm 1858). Lúc bấy giờ, ông là một trong những người đứng về phía chủ chiến. Tuy chủ chiến, song ông không tán thành việc “sát đạo” của Vua Tự Đức lúc bấy giờ.

Bảng nhãn Phạm Thanh: “Quốc triều Á trạng” thời NguyễnBức biển bài có chữ “Quốc triều Á trạng” được con cháu dòng họ Phạm ở xã Hòa Lộc giữ gìn.

Là người hiểu biết sâu rộng, văn tài lỗi lạc, lại có uy tín trong triều đình nhưng Bảng nhãn Phạm Thanh cũng là người chất chứa tâm tư, nhiều nỗi niềm. “Người vốn yên mà muốn no ấm không phải dễ; há chịu mãi cảnh tối tăm sao? Quay đầu về mé trời tây thì mây hoang mờ mịt, gió buốt thảm thê; con tim khối óc, máu và nước mắt khắc họa rõ! Thanh không vì nhỏ bé, mờ nhạt, không vì thua người, mong có trời chứng giám” (theo Di cảo Phạm Thanh).

Làm quan chốn kinh kỳ song ông cũng đau đáu tấm lòng của kẻ xa quê nhớ về xứ Thanh. Trong bài thơ tiễn bạn về Thanh Hóa, ông viết: “Hàm Rồng đẹp, sông Mã trong/ Bác đi thuận gió, cánh bồng nhẹ trôi/ Nhớ quê trong mộng phần tôi/ Đêm đêm theo bác về nơi Hạc Thành” (theo Phạm Nghị Trai thi văn tập, bản dịch của Hà Vũ). Bên cạnh sự nghiệp làm quan thì Phạm Thanh còn để lại cho đời số lượng lớn tác phẩm thơ văn mà qua đó ông đã gửi gắm tâm tư, nỗi niềm của chính mình. Ngày nay, một số tác phẩm thơ văn của ông còn được lưu giữ tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm và ngay tại quê nhà Trương Xá.

Sự nghiệp làm quan những tưởng đang ở độ chín thì Bảng nhãn Phạm Thanh đột ngột qua đời với nhiều uẩn khúc. Khi đó ông mới có 42 tuổi (1863) được chôn cất tại kinh đô Huế, về sau đưa về quê nhà Trương Xá. Trước sự ra đi đột ngột của Bảng nhãn Phạm Thanh, người đương thời đã bày tỏ sự tiếc thương sâu sắc. Trong đó, người bạn đồng môn Đỗ Xuân Cát lúc bấy giờ đang làm quan với nhà Nguyễn đã viếng ông bằng đôi câu đối: “Khoa vi khôi, hoạn vi khanh, phương tứ thập chính cường, sĩ hãn đáo thử/ Thân hoàn danh, thế hoàn cục, túng bách tuế xưng lão, thần thiêm kỷ hà” (được hiểu là khoa đỗ đầu, quan chức lớn, mới bốn mươi chính lúc khang cường, kẻ sĩ đến thế cũng là hiếm; danh đã tròn, đời cũng trọn, giá trăm tuổi lên hàng lão đại, bề tôi còn góp được bao công).

Ông Phạm Văn Thịnh - hậu duệ đời thứ 6 của Bảng nhãn Phạm Thanh hiện đang trông coi hương khói cho tiền nhân, cho biết: “Cuộc đời làm quan của cụ nhà (tức Phạm Thanh) quả thực đến nay vẫn còn nhiều điều bí ẩn mà nhiều đời con cháu về sau vẫn chưa thể thấu hết. Tuy vậy, tài năng, nhân cách và tấm lòng của bậc làm quan dốc lòng vì triều đình, đau đáu với vận mệnh đất nước của cụ Phạm Thanh là điều vô cùng sáng rõ. Đó là niềm tự hào để con cháu dòng họ Phạm đời nối đời tiếp nối truyền thống cha ông”.

Bài và ảnh: Khánh Lộc



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]