(vhds.baothanhhoa.vn) - Phát triển du lịch tâm linh không chỉ là một hoạt động văn hóa tinh thần mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, một nguồn thu tích cực cho nền kinh tế quốc dân.

Tin liên quan

Đọc nhiều

Lễ hội tâm linh trong du lịch

Phát triển du lịch tâm linh không chỉ là một hoạt động văn hóa tinh thần mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, một nguồn thu tích cực cho nền kinh tế quốc dân.

Nhiều thế kỷ nay, thế giới đã có những chuyển biến tích cực trong mối quan hệ du lịch, tham quan, thưởng ngoạn, hành lễ, thông qua vật thể như di sản kiến trúc, di sản thiên nhiên, văn hóa phi vật thể tín ngưỡng thờ cúng, tế lễ về niềm tin, ước nguyện Chúa, Phật,... Ở nước ta không ngoại lệ, có thể nói du lịch tâm linh đất Việt đã và đang phát triển mạnh từ Bắc đến Nam. Việt Nam coi du lịch tâm linh là loại hình du lịch văn hóa chuyên đề, một nhân tố quan trọng không chỉ mang lại sự tăng trưởng của nền kinh tế mà còn phát huy giá trị tinh thần, lòng yêu nước, niềm tin, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước bền vững. Tín ngưỡng trong văn hóa được coi là giá trị cốt lõi của sản phẩm du lịch tâm linh, đồng thời là sợi dây kết nối tâm hồn người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Phát triển du lịch tâm linh không chỉ là một hoạt động văn hóa tinh thần mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, một nguồn thu tích cực cho nền kinh tế quốc dân. Ở Việt Nam, sau khi thống nhất nước nhà, Bắc Nam liền một dải, quan hệ quốc tế được mở rộng, Đảng, Nhà nước có chủ trương tự do tín ngưỡng, phát huy giá trị cao đẹp của văn hóa truyền thống như lễ hội, quan hệ dòng họ, tôn giáo, phục hồi văn hóa vật thể, phi vật thể theo hướng tích cực, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa tâm linh trong nước và nước ngoài nhất là tinh thần đoàn kết quốc tế, khép lại quá khứ hướng tới tương lai, là bạn với các nước trên thế giới. Mặt khác, qua đây mà tăng nguồn thu hợp lý thông qua hoạt động du lịch tâm linh phát triển bền vững phạm vi cả nước.

Thành Nhà Hồ.

Nhiều địa phương đã có những biện pháp, cách thức cho bước đi chiến lược trong đó chú trọng đến du lịch tâm linh, một thế mạnh của ngành du lịch nhất là những nơi có nhiều di sản văn hóa lịch sử, các điểm du lịch như đền Hùng (Phú Thọ), chùa Bái Đính (Ninh Bình), chùa Hương (Hà Nội), Yên Tử (Quảng Ninh), đền Trần (Nam Định), Thành Nhà Hồ, Lam Kinh (Thanh Hóa),... Du khách trong và ngoài nước đến tham quan, hành lễ tại những điểm du lịch này ngày càng đông, tạo ra những sức hấp dẫn mới cho xu thế hội nhập phát triển. Nhiều tỉnh thành đã có quy hoạch, kế hoạch, lộ trình cho việc đầu tư tôn tạo di sản vật thể và phi vật thể, các cơ sở hạ tầng được mở rộng theo hình thức xã hội hóa nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch đầy đủ. Nếu nói đến sản phẩm du lịch đầy đủ phải tính đến các yếu tố cấu thành như đường sá, phương tiện giao thông đi lại, môi trường cảnh quan, quan hệ giao tiếp ứng xử, cách thức quảng bá giữa du khách với nhân viên du lịch; nơi người ta đến tham quan phải là nơi có dịch vụ ăn, nghỉ, tiếp đón tốt, an ninh trật tự, mua sắm hàng lưu niệm, văn hóa ẩm thực, chất lượng giá trị di sản, điểm đến phải được quy chuẩn. Đến với di sản, tâm linh du khách còn muốn tham quan làng nghề, khu tưởng niệm, hưởng thụ văn hóa phi vật thể, dân ca, dân vũ,... đó là những yếu tố cơ bản cấu thành nên sản phẩm du lịch đầy đủ.

Để làm tốt mục tiêu trên, các địa phương tỉnh, thành ngoài việc quy hoạch tổng thể, cần có kế hoạch chi tiết, lộ trình, trên cơ sở thế mạnh, tiềm năng KT-XH của địa phương mà xác lập một cơ chế, chính sách thật sự trong thông ngoài thoáng mới tạo thuận lợi cho du khách tham quan và thu hút được đối tác đầu tư. Mặt khác, nhà nước cần chú trọng hơn nữa công tác đào tạo cán bộ chuyên sâu nhất là kiến thức về lịch sử, bảo tồn bảo tàng, năng khiếu thuyết minh có sức truyền cảm hấp dẫn cho ngành du lịch.

Trên cơ sở tiềm năng lợi thế của địa phương và có thiết chế, tổ chức chuyên nghiệp rất cần có sự liên kết, liên doanh với các tỉnh bạn và vươn xa đến các nước trong khu vực như Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia,... nhằm quảng bá thế mạnh của di sản văn hóa Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Một sản phẩm du lịch đầy đủ sẽ khẳng định tính bền vững trong xu thế phát triển chung của hội nhập quốc tế về văn hóa tâm linh.

Để chuyển nhanh tốc độ phát triển du lịch tâm linh bền vững có hiệu quả cần đẩy mạnh xã hội hóa. Xu thế phát triển du lịch cộng đồng là nhân dân tự sáng tạo cách làm tạo ra những sản phẩm mới hấp dẫn dưới sự quản lý của Nhà nước, người dân là người được hưởng thụ kinh tế và phúc lợi xã hội khác từ xã hội hóa mang lại. Xã hội hóa ở đây là nhân dân tự bỏ công sức, vật lực, tài lực tùy theo sức của mình để làm du lịch nhất là sản phẩm từ làng nghề sinh thái, phong tục sinh hoạt sản xuất, văn hóa hành chính làng xã cổ xưa, nghi thức cúng lễ, dân ca, dân vũ, hiếu hỉ gia đình,... Thực tế nhiều nơi làm rất tốt như Hà Giang, Thái Nguyên, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hà Nội, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long...

Lễ hội Mường Xia.

Xuất phát được hưởng lợi từ du lịch mang lại mà nhiều gia đình đã tự học ngoại ngữ như tiếng Anh, Pháp, Nhật, Nga, Trung Quốc để giao tiếp với du khách nước ngoài. Nhiều người nước ngoài như Mỹ, Pháp, Nga, Đức đến với du lịch cộng đồng Việt Nam họ đã trải nghiệm những hoạt động tâm linh như cúng lễ, hội hè tại những nơi như đền chùa, miếu mạo ở Việt Nam, một loại di sản tâm linh rất phong phú, hấp dẫn và để lại những ấn tượng sâu sắc đối với họ. Để đưa hoạt động du lịch tâm linh bền vững, du khách không những được tham quan mà còn hóa thân linh thiêng khi họ tham gia hành lễ. Du lịch tâm linh có hiệu quả cao là tính “chân, thiện, mỹ” càng phải được hoàn thiện sâu sắc trên mọi lĩnh vực xã hội mà do cách thức hoạt động của người làm du lịch góp phần quan trọng cho du khách. Xuất phát từ mục đích ấy, các nghi thức lễ hội hành lễ thờ cúng, dâng hương, giao tiếp ứng xử phải hết sức thành kính, tôn nghiêm và thân thiện. Những hủ tục mê tín dị đoan bói toán, đốt vàng mã, ẩm thực mất vệ sinh,... trong hoạt động lễ hội cần được phê phán, có như vậy mới tạo ra môi trường văn hoá tâm linh lành mạnh góp phần xây dựng đời sống xã hội phát triển bền vững. Để làm được điều đó, trong lúc này, khi mà tính hội nhập quốc tế đang có xu hướng mở rộng trên nhiều lĩnh vực thì du lịch cộng đồng cũng được nhà nước xây dựng một hành lang pháp lý cụ thể hơn, minh bạch hơn về di sản văn hóa tâm linh trong đời sống xã hội.

Để nâng cao hiệu quả du lịch tâm linh rất cần tăng cường sự quản lý nhà nước. Ở đó không chỉ là xử phạt, khen thưởng, thu thuế,... mà hơn hết là những cơ chế chính sách sát thực để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển, trong đó ưu tiên xã hội hoá du lịch cộng đồng, mặt khác nhà nước còn đầu tư hợp lý mang tính chủ đạo để tôn tạo, tu bổ di sản vật thể và phi vật thể quan trọng, cơ sở hạ tầng như giao thông, đường xá,... Trên cơ sở chính sách mở và thông thoáng nhưng nhà nước cũng yêu cầu các cơ sở du lịch văn hoá phải nghiêm túc thực hiện những quy định về bảo tồn và phát huy giá trị di sản.

Nếu chỉ lo phát triển kinh tế trong du lịch mà quên đi công tác bảo tồn di sản văn hóa là điều rất đáng trách, song nếu bảo thủ, cực đoan trong bảo tồn mà không tính đến phát triển là hết sức sai lầm. Bảo tồn và phát triển là phương châm song hành, bảo tồn để phát triển và ngược lại phát triển là để nâng cao chất lượng bảo tồn. Để du lịch tâm linh phát triển, nhà nước đã có chủ trương khuyến khích mọi người dân tham gia tích cực vào hoạt động du lịch bằng cách làm mới sáng tạo và đầu tư hợp lý, tạo môi trường văn hoá du lịch lành mạnh góp phần đưa ngành du lịch phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập.

Hoàng Hoa Mai


Hoàng Hoa Mai

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]