Dáng hình người lính trong thơ ca
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các cuộc chiến tranh biên giới trong thế kỷ XX, chúng ta không có sự vượt trội về sức mạnh vật chất, nhưng chúng ta lại luôn là người chiến thắng, cho dù chiến thắng ấy có phải đánh đổi bằng rất nhiều máu xương của nhiều thế hệ. Lòng yêu nước ấy, tinh thần lạc quan ấy xuất phát từ niềm say mê lý tưởng, tình yêu cố hữu, chân thành và tự nguyện với đất nước, quê hương, được trui rèn qua thực tiễn chiến đấu; và được bồi đắp bởi những rung động tinh tế của tâm hồn qua tiếp nhận các tác phẩm văn học mang màu sắc sử thi của giai đoạn này.

Minh hoạ: BH
1. Xuất hiện sớm nhất là hình ảnh những người chiến sĩ trong tên gọi anh Vệ quốc quân. Đấy là lớp người đầu tiên đứng lên cầm súng theo tiếng gọi của Bác Hồ, trở thành những người tiên phong, mà ngay tên gọi thôi cũng đủ để dấy lên một niềm thân thương kiêu hãnh: Anh Bộ đội Cụ Hồ. Không được đào tạo một cách chính quy, không qua trường lớp và với mọi thành phần xuất thân - thể hiện tinh thần đoàn kết của cả một dân tộc luôn biết nắm chặt tay nhau để bảo vệ lãnh thổ, đời sống, số phận của chính mình. Những người chiến sĩ ấy xuất hiện một cách giản dị, đời thường: Lũ chúng tôi/ Bọn người tứ xứ/ Gặp nhau hồi chưa biết chữ/ Quen nhau từ buổi “một hai”/ Súng bắn chưa quen, quân sự mươi bài/ Lòng vẫn cười vui kháng chiến (Nhớ - Hồng Nguyên).
Trong khí thế toàn dân tộc lên đường, không thể thiếu thành phần “tinh hoa” - những người lính xuất thân học sinh, sinh viên, trí thức... “xếp bút nghiên theo việc đao cung”.
Và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ tại chiến dịch Điện Biên Phủ đã từng nếm trải bao gian lao, vất vả: Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu).
Nhưng cũng chính họ làm nên lịch sử, trở thành những nhân vật chính của lịch sử. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã xuất hiện bao tấm gương anh hùng làm rạng danh non sông đất nước. Lấy chất liệu từ những tấm gương tiêu biểu như Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót... nhưng không dừng lại ở một cái tên riêng nào, nhà thơ Tố Hữu đã ghi danh tên tuổi họ vào bức tượng thơ:
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện.
Những anh hùng hy sinh cả tuổi xuân cho Tổ quốc, cho Nhân dân bởi họ đã được hun đúc bằng truyền thống yêu nước bốn ngàn năm lịch sử. Chiến sĩ Điện Biên là hàng ngàn anh bộ đội, vệ quốc quân tại cứ điểm Điện Biên Phủ đối mặt với kẻ thù, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Chiến sĩ Điện Biên là những đoàn dân công “mòn đêm vận tải”...
Dù chưa có nhiều thành tựu và chưa cắm được ngọn cờ thi ca ở những cột mốc quan trọng của lịch sử, song phải thừa nhận rằng thơ Việt Nam 1945-1954 đã có những thành quả nhất định.
2. Sau 1954, cả dân tộc lại bước vào cuộc trường chinh mới. Và đây cũng chính là cuộc thử lửa vĩ đại nhất của dân tộc, của tình yêu đất nước. Cùng một lúc, nhiều thế hệ người Việt Nam lại “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, lớp lớp cha con lên đường và cùng chung chiến hào đánh Mỹ:
Căm thù dồn lên đầu súng, ngọn lê, cả dân tộc ta đổ ra tiền tuyến quyết sống chết với quân thù. Xốc mạnh ba lô lên vai, các nhà thơ, nhà văn Nhân dân của ta cũng ở trong đoàn quân ấy:
Cha còn đeo quân hàm
Con đã gia nhập ngũ
Một hòn đá Trường Sơn
Cha con cùng gối ngủ
(Trinh Đường)
Người lính Cụ Hồ lúc này xuất hiện không còn với vẻ đẹp chân chất, đôi khi còn lấm láp đất bùn, mà đã trở nên kỳ vĩ, thậm chí lộng lẫy, và càng tiến sâu vào trung tâm của lịch sử. Thật khó để quên được hình tượng anh giải phóng quân trong thơ Tố Hữu, Thu Bồn, Giang Nam, Dương Hương Ly, Lê Anh Xuân...
Viết về người chiến sĩ giải phóng quân, bên cạnh việc miêu tả chi tiết, cụ thể về tâm tư, về sinh hoạt của đời sống người lính... thì các tác giả có xu hướng khái quát về tư thế, tầm vóc của các anh trong cuộc chiến, trong lịch sử:
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi
(Bài ca Xuân 1968 - Tố Hữu)
Nhịp thơ vang lên hào hùng, sảng khoái! Nó được cất lên từ đáy lòng cảm phục của nhà thơ và ngân lên như khúc hùng ca về người anh hùng thời đại. Nhà thơ ví anh là “Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” là để làm nổi bật lên sức mạnh của truyền thống yêu nước và nhân đạo của dân tộc.
3. Sau 1975, chiến tranh và người lính vẫn tiếp tục là một đề tài quan trọng trong văn học, nhất là văn xuôi, thơ và trường ca. Thơ cũng tiếp tục với thiên chức và thế mạnh của mình, miêu tả và thể hiện người lính nhưng với một tinh thần mở, với những nghiền ngẫm, suy tư về một thời đã qua theo tinh thần nhận thức lại. Dường như người đọc gặp nhiều hơn những người lính anh hùng đang ngày đêm bảo vệ biên cương và biển trời Tổ quốc.
Bên cạnh thế hệ nhà thơ trẻ của chiến trường K vừa cầm súng vừa làm thơ như Phạm Sỹ Sáu, Lê Minh Quốc, Cao Vũ Huy Miên... những năm tháng trong và ngay sau chiến tranh biên giới Tây Nam, còn có sự góp mặt của nhiều nhà thơ đã nổi danh từ trong chiến tranh chống Mỹ với những trường ca mang âm hưởng sử thi hùng tráng như Oran 76 ngọn và Campuchia hi vọng của Thu Bồn, Sông Mê Kông bốn mặt của Anh Ngọc... Đây cũng là thời kỳ nở rộ của trường ca trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Chứa đựng tầm nhìn của những người từng trải nghiệm hai cuộc chiến và thể hiện đặc điểm của thể loại trường ca, những tác phẩm này đa phần khắc họa chiến tranh biên giới Tây Nam ở tầm khái quát, giàu chất triết lý, có tính liên kết cao.
Tháng 2/1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, cả dân tộc lại lên đường ra tiền tuyến. Nhiều nhà văn, nhà thơ vừa đi qua kháng chiến chống Mỹ lại tiếp tục xông lên tuyến lửa, hòa mình vào những dòng người ra trận hôm nay, với tất cả nguồn sức mạnh đã được hun đúc từ hai cuộc kháng chiến trước...
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài “Chúng tôi gọi tên anh” là tiếng khóc thiết tha, thương tiếc, tự hào về Anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh hy sinh ở mặt trận Vị Xuyên khi tuổi đời còn rất trẻ: Anh Chinh ơi!/ Chúng tôi gọi tên anh/ Khi lũ quỷ lại tràn sang đất mẹ/ ...Trên xác tăng thù, chim lại hót vang/ Đàn trâu lại lên nương, rộn ràng tiếng mõ.
Ở mặt trận Lào Cai, với tư cách một phóng viên đi cùng bộ đội, nhà thơ Dương Soái đã viết bài thơ “Gửi em ở cuối sông Hồng” vào ngày 20/2/1979, ghi lại những phút giây bàng hoàng và nhức nhối: Anh ở Lào Cai/ Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt/ Tháng Hai, mùa này con nước/ Lắng phù sa in bóng đôi bờ.../ Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông/ Nhưng ngây thơ đâu còn ở chúng mình/ Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc/ Khi Lào Cai trong anh trở thành máu thịt/ Đạn lên nòng, anh giữ ngọn nguồn sông!. Bài thơ còn là tình cảm của người lính trên chốt biên cương luôn nhớ về hậu phương và hậu phương luôn là nguồn sức mạnh cho các anh chiến đấu và chiến thắng. Bài thơ sau khi đăng báo, đã được nhạc sĩ Thuận Yến phổ thành ca khúc nổi tiếng.
Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm thể hiện tình yêu Tổ quốc với một tứ thơ mới lạ, một hình ảnh thơ sinh động và giàu sức khái quát:
Tôi không thể nào mang về cho em
Những cột mốc biên cương chảy máu.
Tôi không thể nào mang về cho em
Dáng đồng đội trong những giờ chiến đấu...
4. Biển đảo là một phần thiêng liêng của Tổ quốc. Nhắc tới Hoàng Sa, Trường Sa là nhắc tới một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam, nhắc tới vòng tròn bất tử và những trận chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thời chiến cũng như thời bình, những người lính biển luôn là những người lính anh hùng thầm lặng hy sinh. Trần Đăng Khoa đã viết trong bài “Thơ tình người lính biển”: Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên/ Cơn bão chưa ngưng trong tâm hồn biết bao người/ Anh đứng gác, trời khuya đảo vắng...
Thơ viết về người lính đã tạo nên ấn tượng và hình ảnh đẹp trong Tổ quốc ở Trường Sa của Nguyễn Việt Chiến, Mộ gió của Trịnh Công Lộc, Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Phan Quế Mai, Hào phóng thềm lục địa của Nguyễn Thanh Mừng, Người sau chân sóng của Lê Thị Mây, Gần lắm Trường Sa của Lê Thị Kim; Thao thức Trường Sa của Nguyễn Thế Kỷ... Mỗi bài thơ, một cách tiếp cận với biển đảo, một cách thể hiện cảm xúc và tình yêu đối với người lính đảo.
Một thời, thơ nằm trong ba lô người lính, trên báng súng người lính, trên cánh tay và trong trí nhớ người lính. Cho đến ngày hôm nay, các thế hệ 4X, 5X, 6X, 7X vẫn nhớ và thuộc nhiều bài thơ viết về người lính và cách mạng, nhất là thơ Tố Hữu. Đấy là một sự thật. Và sự thật ấy là kết quả của hành trình sáng tạo và tiếp nhận từ trái tim đến trái tim, là sự đồng cảm của tác giả và độc giả.
Lê Xuân Soan (CTV)
{name} - {time}
-
2025-12-10 19:00:00[Podcast Tản văn]: Vị bùi thơm ấm ngày gió trở
-
2025-12-07 12:18:00Bóng chữ ẩn ở Châu Thường
-
2025-12-06 19:00:00[Podcast] Truyện ngắn: Biển động
![[Podcast Tản văn]: Vị bùi thơm ấm ngày gió trở](http://c.baothanhhoa.vn/media/img/256/news/2549/146d3101057t03677l1-download1.webp)

![[Podcast] Truyện ngắn: Biển động](http://c.baothanhhoa.vn/media/img/256/news/2548/146d6105757t05731l1-download9.webp)



