(vhds.baothanhhoa.vn) - Ở tầm cao lý luận và thực tiễn, bài viết của Tổng Bí thư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nâng tầm tư tưởng, khơi dậy tình cảm, khát vọng, cổ vũ động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Bài viết của Tổng Bí thư: Khơi dậy tình cảm, khát vọng, cổ vũ động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

Ở tầm cao lý luận và thực tiễn, bài viết của Tổng Bí thư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nâng tầm tư tưởng, khơi dậy tình cảm, khát vọng, cổ vũ động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Bài viết của Tổng Bí thư: Khơi dậy tình cảm, khát vọng, cổ vũ động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

PGS.TS Đào Duy Quát – nguyên Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương.

Đó là đánh giá của PGS.TS Đào Duy Quát – nguyên Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương về bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của GS. TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bài viết rất quan trọng này được công bố trong bối cảnh cả nước ta kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Do đó, bài viết mang ý nghĩa thời sự, thể hiện toàn Đảng, toàn dân ta kiên định, kiên trì thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - một quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đã trở thành đường lối cơ bản xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

Lý giải sâu sắc, đầy sức thuyết phục

Theo PGS. Đào Duy Quát, trong bài viết rất quan trọng này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cắt nghĩa, lý giải rất sâu sắc, đầy sức thuyết phục 4 vấn đề rất quan trọng: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng CNXH ở Việt Nam? Thực hiện công cuộc đổi mới đi lên CNXH ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?

Trình bày bốn vấn đề rất cơ bản của Cương lĩnh và đường lối Đại hội XIII của Đảng với các luận cứ được tiếp thu từ Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 và những thành tựu lý luận qua tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, bài viết quan trọng của Tổng Bí thư có ý nghĩa như một luận cương mới về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam.

Với ý nghĩa là luận cương mới, bài viết rất quan trọng này có tác động sâu rộng đến nâng tầm nhận thức tư tưởng chính trị, củng cố niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng, khơi dậy tình cảm, khát vọng, cổ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trước mắt là tổ chức thắng lợi Ngày hội của toàn dân: bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân, vì nhân dân, một nhà nước trong sạch, vững mạnh để nhân dân ta thực hiện quyền dân chủ đại diện của mình.

Bài viết của Tổng Bí thư: Khơi dậy tình cảm, khát vọng, cổ vũ động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết tại Làng văn hóa Thượng Điện, xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, ngày 17/11/2020. Ảnh: Báo Đại Đoàn Kết

Lựa chọn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển

Ông Đào Duy Quát phân tích điểm nhấn của bài viết của Tổng Bí thư là sự luận giải với lý lẽ sâu sắc và những luận chứng thuyết phục về tính tất yếu của CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam.

Trước khi luận giải về tính tất yếu của CNXH, bài viết đã lưu ý phương pháp tiếp cận CNXH rất toàn diện, trên cả ba phương diện: CNXH là một học thuyết; CNXH là một phong trào hiện thực; CNXH là một chế độ, một chính thể chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội hình thành trong những điều kiện lịch sử nhất định.

Bài viết khẳng định: Về phương diện học thuyết thì CNXH mà Việt Nam lựa chọn là CNXH khoa học, dựa trên học thuyết Marx-Lenin trong thời đại ngày nay. Trong bài viết này không luận giải tính tất yếu của CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam thời kỳ trước khủng hoảng và sự sụp đổ của chế độ CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu vì “khi còn Liên Xô và hệ thống các nước XHCN trên thế giới thì vấn đề đi lên CNXH ở Việt Nam không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định”.

Nhân đây, ông Đào Duy Quát cũng nêu lại một số điểm: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, từ đó đến năm 1930 có hàng loạt phong trào khởi nghĩa, cứu nước, tất cả các phong trào này đều thất bại do mục tiêu và đường lối không phù hợp với thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đầu thế kỷ 20, Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, đúng như Bác Hồ viết: “Tình hình đen tối như không có lối ra”.

Năm 1911, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, sau gần 10 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển, tham gia hoạt động ở nhiều phong trào, tổ chức chính trị, Bác đã tìm thấy và tiếp nhận được bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Marx-Lenin và đi tới một kết luận hết sức sáng tỏ: Muốn cứu nước cứu nhà không còn con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản! Nghĩa là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của Cách mạng XHCN.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Tại Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt do Bác khởi thảo. Chính cương xác định: Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Do đó, Đường lối cách mạng dân tộc của Đảng ngay từ đầu đã gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu xây dựng CNXH, phù hợp với quy luật của thời đại và đáp ứng khát vọng của toàn dân tộc.

Đường lối cách mạng của Đảng được toàn dân ủng hộ và đi theo Đảng làm cách mạng.

Năm 1975, sau Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đại hội IV của Đảng đã xác định 2 nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng XHCN trên phạm vi cả nước và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.

“Sự lựa chọn cách mạng XHCN ở miền Bắc năm 1960 và cả nước năm 1975 là tất yếu, là điều nhất thiết phải khẳng định vì có những điều kiện căn bản đảm bảo, đó là: Phù hợp với tính chất của thời đại mới mở ra sau thắng lợi Cách mạng tháng 10 Nga; Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền; Có sự giúp đỡ và ủng hộ to lớn có hiệu quả của Liên Xô và phe XHCN; Có điều kiện thực tế để hiện thực hoá mục tiêu: Tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân”, ông Đào Duy Quát phân tích.

Nhưng từ sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên CNXH lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thừa cơ lấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của CNXH, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước Đông Âu là do sai lầm của Chủ nghĩa Marx-Lenin và sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH. Từ đó họ cho rằng, chúng ta chọn con đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, công kích bôi bác CNXH, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Có người còn “sám hối” về một thời đã tin theo Chủ nghĩa Marx-Lenin và con đường XHCN. Từ những biểu hiện nêu trên, bài viết của Tổng Bí thư đã tập trung phân tích, lý giải bản chất, thực trạng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhất là từ 1991 đến nay, luận chứng đầy sức thuyết phục vào những vấn đề chủ yếu sau.

Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học công nghệ. Ở các nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và nhất là do kết quả cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những điều chỉnh, hình thành không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn. Từ giữa thập kỷ 1970 và nhất là sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách tự do mới trên quy mô toàn cầu và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển.

Nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn không khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, năng lượng liên tiếp xảy ra. Bài viết luận chứng về cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ Mỹ năm 2008, lan đến tất cả các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác, tác động đến hầu hết các nước. Và hiện nay cuộc khủng hoảng y tế, xã hội lẫn kinh tế, chính trị đang diễn ra dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Kinh tế suy thoái đã phơi bày sự thật về những bất công xã hội trong xã hội tư bản: Thất nghiệp gia tăng, khoảng cách giàu nghèo trầm trọng thêm những mâu thuẫn xung đột giữa các sắc tộc, làm bùng nổ các xung đột xã hội, bùng nổ các phong trào phản kháng xã hội đang phơi bày rõ sự thật, bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Ở đây, một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại chiếm giữ phần lớn các tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu, do đó chi phối toàn xã hội.

Sau khi vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và của thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, bài viết của Tổng Bí thư tập trung luận giải: Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn và sâu sắc hơn về CNXH và thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Từng bước khắc phục được một số quan niệm đơn giản trước đây như: Đồng nhất mục tiêu cuối cùng của CNXH với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt, nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản.

Dù cho đến nay, còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, Đảng ta đã hình thành nhận thức tổng quát xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng, đó là 8 mục tiêu, 8 phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu.

Nhận thức sáng tỏ 8 đặc trưng, mục tiêu của CHXH mà nhân dân ta xây dựng và xác định được 8 phương hướng cơ bản để thực hiện được 8 mục tiêu, thể hiện được quyết tâm chính trị của Đảng ta trong Cương lĩnh 1991 và 2011: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN, trên nền tảng Chủ nghĩa Marx-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh”. “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Bài viết của Tổng Bí thư: Khơi dậy tình cảm, khát vọng, cổ vũ động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với các đại biểu điển hình, tiên tiến toàn quốc trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân vững mạnh giai đoạn 2009-2019. Ảnh: Báo Nhân Dân

Đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo

Ông Đào Duy Quát đã chia sẻ với Báo Điện tử Chính phủ về luận điểm trong bài viết của Tổng Bí thư: “Đưa ra quan niệm: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta”.

Hình thành được quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là thành tựu lý luận đặc biệt quan trọng, là kết quả của quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ Đại hội VI. Vào thời điểm này, tình hình kinh tế xã hội của đất nước đang đối mặt với những thách thức và khó khăn gay gắt: Sản xuất trì trệ, lưu thông rối ren, mất cân đối lớn trong nền kinh tế, ¾ dân số sống dưới mức nghèo khổ. Trước tình hình này, Đảng ta cho rằng, muốn làm tròn trách nhiệm của mình “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế”. Đổi mới tư duy không chỉ là đổi mới phương pháp, nội dung tư duy mà còn phải đổi mới quan niệm…”.

Thời điểm này chúng ta đang có sự lạc hậu về nhận thức lý luận, có nhiều quan niệm lạc hậu về công nghiệp hóa, về cải tạo quan hệ sản xuất, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông. Trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhất là tư duy kinh tế, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH, từng bước khắc phục được những quan niệm giản đơn, không phù hợp trong kinh tế như: nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời ký quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản…

Về thời kỳ quá độ, Đảng ta nhận thức được rằng: “Quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài vô cùng khó khăn và phức tạp vì nó phải tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các bình diện của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức kinh tế xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa, bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Trên cơ sở những nhận thức đúng hơn và sâu sắc hơn về CHXH, về thời kỳ quá độ lên CHXH, nhất là nhận thức đúng và sâu sắc hơn về quan niệm bỏ qua chế độ tư bản, từng bước Đảng ta đã hình thành quan niệm về kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Trong Nghị quyết Đại hội VI, Đảng ta xác định: “Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN… Cơ chế mới lấy kế hoạch làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế…”.

Đến Đại hội VII, Đảng ta đưa ra quan niệm: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước”.

Đến Đại hội XIII, Đảng ta phát triển, hoàn thiện quan niệm: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đảm bảo định hướng XHCN nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Đúng như bài viết khẳng định: “Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng không phải là nền kinh tế thị trường XHCN đầy đủ (vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ)”.

Hình thành quan niệm về kinh tế thị trường định hướng XHCN - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH thực sự là một đột phá lý luận rất căn bản. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã thực sự đem lại sự thay đổi và phát triển mạnh mẽ, to lớn, toàn diện. Nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua tình trạng khủng hoảng, kinh tế - xã hội phát triển liên tục với tốc độ khá cao, đưa nước ta từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển, với thu nhập bình quân đầu người hơn 3.500 USD, tăng 17 lần so với trước đổi mới.

Phương Liên/VGP News


Phương Liên/VGP News

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]