(vhds.baothanhhoa.vn) - Hồi Xuân - vùng đất nơi dòng sông Mã uốn lượn qua những triền núi trập trùng, mang theo tiếng gió đại ngàn và hương rừng ngọt lịm. Không chỉ nổi tiếng bởi cảnh sắc hùng vĩ, mảnh đất này còn lưu giữ những giá trị lịch sử và văn hóa đặc biệt, gắn với những con người đã góp phần khai mở, dựng xây, bảo vệ từng tấc đất biên cương. Trong số đó, đền thờ Thượng tướng Thống lĩnh quân Lò Khằm Ban - công trình tâm linh đậm bản sắc dân tộc Thái - chính là biểu tượng thiêng liêng, in đậm dấu ấn trong tâm thức người dân nơi đây.

Chuyện Thượng tướng Lò Khằm Ban

Hồi Xuân - vùng đất nơi dòng sông Mã uốn lượn qua những triền núi trập trùng, mang theo tiếng gió đại ngàn và hương rừng ngọt lịm. Không chỉ nổi tiếng bởi cảnh sắc hùng vĩ, mảnh đất này còn lưu giữ những giá trị lịch sử và văn hóa đặc biệt, gắn với những con người đã góp phần khai mở, dựng xây, bảo vệ từng tấc đất biên cương. Trong số đó, đền thờ Thượng tướng Thống lĩnh quân Lò Khằm Ban - công trình tâm linh đậm bản sắc dân tộc Thái - chính là biểu tượng thiêng liêng, in đậm dấu ấn trong tâm thức người dân nơi đây.

Chuyện Thượng tướng Lò Khằm Ban

Ông Phạm Hồng Sơn (ngoài cùng bên trái) kể lại quá trình lập mường của Thượng tướng Lò Khằm Ban. Ảnh: Linh Sơn

Một buổi chiều, gió từ đỉnh Pom Kéo mơn man thổi xuống, đưa bước chúng tôi tìm về đền thờ Thượng tướng Lò Khằm Ban. Con đường men theo triền đồi dẫn đến ngôi đền như đưa người lữ khách bước qua một vùng ký ức, nơi câu chuyện về vị tướng tài ba vẫn được truyền lại qua bao thế hệ. Ông Phạm Hồng Sơn, một bậc cao niên trong dòng họ Phạm Bá, cũng là hậu duệ nhiều đời của tướng quân đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu. Trong làn khói hương nghi ngút, ông chậm rãi kể: “Với dòng họ Phạm Bá ở bản Khằm, xã Hồi Xuân, đền thờ Thượng tướng Lò Khằm Ban suốt nhiều thập kỷ qua không chỉ là niềm tự hào của dòng họ, mà còn là địa chỉ đỏ để giáo dục con cháu về nguồn cội, lòng yêu nước và sự tri ân đối với vị tướng đã khai phá, dựng xây vùng đất này”.

Theo sử sách, năm 1418, tại núi rừng Lam Sơn (xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân xưa, nay là xã Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, lấy miền núi Thanh Hóa làm hậu phương. Lời kêu gọi của Bình Định Vương đã vang xa tới châu Quan Hóa, thôi thúc bao lớp trai làng gia nhập nghĩa quân. Trong số đó có Lò Khằm Ban – người sau này trở thành Thượng tướng Thống lĩnh quân, lẫy lừng chiến công.

Ông sinh ra tại Mường Bua - Sa (có sách chép là Na Sản). Từ thuở thiếu thời, Khằm Ban nổi tiếng chăm học, giỏi võ, dáng người to cao, ngực rộng, bước đi mạnh mẽ. Toàn thân ông xăm những hình hoa văn truyền thống, đôi tay rắn chắc, võ nghệ tinh thông – vì thế người đời gọi ông là Chu Kha Lai. Lớn lên, ông chiêu mộ binh mã, hưởng ứng lời kêu gọi của Lê Lợi, rồi cùng quân tiến ra trận.

Cánh quân của Khằm Ban được giao trấn giữ vùng Lũng Cú, Đồng Văn, Đồng Đăng, Kỳ Lừa – nơi biên giới phía Tây Bắc giáp nước Ngô. Ông chỉ huy quân mưu trí, đánh đâu thắng đó, liên tiếp lập công, đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước, lập cột đồng trụ ở Mao Lĩnh, ghi dấu ranh giới giữa Việt Nam và nước Ngô. Trong những trận đánh ác liệt, ông từng bắt sống tướng giặc Poóc Minh, giữ vững vùng biên, góp phần to lớn vào công cuộc kháng Minh.

Chuyện Thượng tướng Lò Khằm Ban

Toàn cảnh khu đền Thượng tướng Lò Khằm Ban trên đỉnh Pom Kéo. Ảnh: Linh Sơn

Nhờ chiến công hiển hách, ông được vua Lê phong hàm Thượng tướng Thống lĩnh quân. Khi đất nước thái bình, vua cho phép ông chọn đất lập thái ấp. Trong hành trình tìm đất, khi đến cửa sông Lò (Mường Ca Da), ông dừng chân nghỉ đêm tại Bãi Gian. Đêm ấy, ông mơ thấy mình tắm ở một máng nước lớn, nước trắng xóa, rồi bị một con rắn to quấn chặt. Giấc mộng được các quan giải là điềm lành. Sáng hôm sau, ông cùng mọi người leo lên đỉnh Múng Mường quan sát: trước mặt là những cánh đồng phì nhiêu, ba con sông Mã, Luồng, Lò hội tụ; phía Đông có dãy Pù Luông mây phủ quanh năm; phía Nam là Pha Cuốn, Pha Chùa, Pha Toóc; phía Tây là Pha Phụ, Pha Múng Mường... Tất cả như một bức thành tự nhiên che chở, khí hậu mát mẻ, đất đai màu mỡ.

Ông đã chọn vùng đất này làm nơi đóng quân và lập thái ấp, cai quản chín động. Ông cho khảo sát địa thế, đào Con Poóng, mở đường, khai khẩn ruộng đồng, xây dựng làng bản, doanh trại, phân quân giữ các vị trí trọng yếu. Ông tiếp tục gìn giữ tên Mường Ca Da và coi trọng việc thờ tự ở hai đền Pom Bá Ót và Pom Nang Úa.

Khi tướng quân mất tại Mường Ca Da, Nhân dân thương tiếc lập đền gỗ tại Pom Kéo (bản Chiềng Khằm) để thờ phụng. Đến thời vua Duy Tân, con cháu và dân làng xây lại đền bằng gạch ngói, dựng bia đá khắc công lao. Năm Khải Định thứ 2 (1917), ông được sắc phong là bản thổ Thành hoàng phù hộ dân làng và được giao cho 6 xã thuộc tổng Phú Lệ cùng thờ phụng.

Năm 2002, Bia ký nơi thờ Khằm Ban được công nhận di tích lịch sử – văn hóa. Năm 2016, di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Ngày nay, đền được tu bổ với nhà bia, cổng, đường lên xuống, hậu cung...

Từ năm 2008, lễ hội Mường Ca Da được phục dựng, tổ chức 5 năm một lần, gồm lễ rước kiệu từ chùa Ông đến đền, lễ Xên Mường, cùng hội văn nghệ, trò chơi dân gian đậm sắc Thái. Năm 2019, lễ hội được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Dẫu thời gian trôi qua, đền thờ Thượng tướng Lò Khằm Ban vẫn hiên ngang trên đỉnh Pom Kéo, như chứng nhân cho truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, cho tinh thần đoàn kết và niềm tự hào của bao thế hệ. Ngôi đền không chỉ là nơi hương khói tưởng nhớ một vị tướng tài đức, mà còn là điểm tựa tinh thần để người dân Hồi Xuân hôm nay tiếp bước cha ông, gìn giữ mảnh đất quê hương.

PHƯƠNG CHÍNH



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]