(vhds.baothanhhoa.vn) - Bản Ón, xã Tam Chung nằm ở vùng tiếp giáp giữa tỉnh Sơn La và huyện Xốp Bâu (Lào), được ví như “ngã ba” biên giới. Cuộc sống của bà con nơi đây còn nhiều khó khăn và hành trình “gieo chữ” của các thầy, cô giáo cũng lắm gian truân, thử thách.

Gieo chữ ở “ngã ba” biên giới

Bản Ón, xã Tam Chung nằm ở vùng tiếp giáp giữa tỉnh Sơn La và huyện Xốp Bâu (Lào), được ví như “ngã ba” biên giới. Cuộc sống của bà con nơi đây còn nhiều khó khăn và hành trình “gieo chữ” của các thầy, cô giáo cũng lắm gian truân, thử thách.

Gieo chữ ở “ngã ba” biên giới

Cô, trò điểm Ón, Trường Mầm non Tam Chung.

Chăm lo bữa ăn cho trẻ

Sáng sớm, khi sương vẫn còn giăng kín những triền núi, cô giáo Hà Thị Yếng, sinh năm 1987, lại chuẩn bị đồ đoàn ngược bản. Nhà ở bản Lát, trung tâm xã Tam Chung, ngày nào cô cũng ngược bản Ón gần 20km đường đồi núi quanh co, đồi dốc. Cố Yếng cho biết: “Các cô cứ luân phiên nhau giảng dạy ở các điểm trường. Sau 5 năm rời điểm Ón, nay tôi lại quay lại như mối lương duyên vậy”.

Từ ngày lên công tác tại bản Ón, ngoài việc dạy học, cô Yếng còn kiêm thêm nhiệm vụ hậu cần, vận chuyển thực phẩm từ điểm trường chính lên bản. Trên chiếc xe máy cũ, ngoài túi xách là bao gạo, mớ rau, thùng cá khô, những thứ nuôi bữa ăn hàng ngày của học trò vùng biên. “Đường nhiều chỗ khó đi lắm, nhất là trời mưa. Những hôm bão không dám về, tôi phải ở lại điểm trường, khi đó lại phải gọi phải nhờ người dân hoặc bộ đội biên phòng giúp chuyển thực phẩm”, cô Yếng kể.

Bắt đầu từ năm học 2021-2022, điểm trường bản Ón lần đầu tổ chức ăn bán trú cho trẻ. Đó là niềm mong mỏi của thầy cô sau nhiều năm. Hiện điểm trường có 81 cháu, với 6 cô giáo trực tiếp giảng dạy, chăm sóc. Dù điều kiện vật chất còn thiếu thốn, các cô vẫn duy trì đều đặn bữa ăn cho trẻ. Mỗi ngày, trẻ được ăn hai bữa: bữa chính và bữa phụ, được đảm bảo đủ dinh dưỡng. Cô Yếng chia sẻ: “Việc thực hiện ăn bán trú rất vất vả cho các cô nhưng nhìn các con ăn ngon miệng, khỏe mạnh, tăng cân đều, khiến chúng tôi quên đi những nhọc nhằn, gian truân”.

Chị Sùng Thị Cha, người đang có con học tại điểm trường Ón vô cùng biết ơn các cô đã cần mẫn chăm sóc con để cả gia đình yên tâm đi làm. Chị Cha nói: “Trước đây, ngày nào tôi cũng phải đưa đón con 4 lượt, không tập trung được công việc nương rẫy. Bây giờ, nhà trường tổ chức ăn bán trú rồi, mỗi ngày, tôi chỉ đưa đón con có 2 lượt. Sáng đi đến trường đã có cô cho ăn, chiều đón con về, con vẫn còn no cái bụng. Con khen cơm ở trường ngon hơn ở nhà. Nhìn thấy con thích đi học, khỏe mạnh, tăng cân đều, tôi vui lắm!”.

Cô Hàn Thị Giang, Hiệu trưởng Trường Mầm non Tam Chung cho biết, để thực hiện được mô hình bán trú cho các con ở “ngã ba biên giới” này thì ngoài những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, nhà trường còn nhận thêm sự đồng hành từ nhiều tổ chức thiện nguyện, trong đó có Dự án “Cùng nhau nuôi em Mường Lát”. Sự hỗ trợ ấy đã góp phần giúp cho bữa cơm vùng biên thêm phần đủ đầy chất dinh dưỡng.

Theo cô Giang, điểm trường mầm non bản Ón là nơi xa và khó khăn nhất của Trường Mầm non Tam Chung. Hơn 90% học sinh là con em người Mông. Địa bàn cách trở, kinh tế eo hẹp nên việc duy trì bữa ăn bán trú là nỗ lực rất lớn của nhà trường. Từ bếp nấu ăn, giếng khoan, téc nước đến dụng cụ nấu nướng... đều được vận động từ các nhà hảo tâm, chính quyền địa phương và các chiến sĩ biên phòng đóng trên địa bàn.

Giữa trưa, căn bếp nhỏ của điểm trường bản Ón tỏa khói nghi ngút. Trong gian nhà lợp mái tôn đơn sơ, các cô giáo tất bật chia cơm, dọn thức ăn cho học trò. Mùi cơm mới, canh rau hòa cùng tiếng ríu rít của lũ trẻ khiến không gian như ấm lên giữa đại ngàn. Bên trong những bức tường mộc mạc, các cháu nhỏ ngồi ngay ngắn bên mâm cơm, nhiều cháu đã biết tự xúc ăn, biết cất bát đũa gọn gàng sau bữa. Nhìn những gương mặt lấm lem nhưng rạng rỡ, các cô giáo thấy mọi vất vả đường xa, nắng gió đều trở nên nhẹ nhõm.

"Học trò còn đến lớp, còn tiếng trẻ ê a, là mình còn ở lại"

Nếu những cô giáo là người vun trồng mầm chữ đầu đời, thì các thầy ở điểm trường tiểu học bản Ón lại là những người bền bỉ “giữ lửa” cho hành trình học tập lâu dài của các em. Thầy Vi Văn Chuân, người đã 5 năm gắn bó với vùng đất này, chia sẻ: “Đây là điểm trường lẻ khó khăn nhất xã. Có em phải đi bộ hơn 5 cây số mới tới lớp. Nhiều hôm đến nơi, mệt quá không đủ sức nghe giảng, thầy cô chỉ biết động viên, khích lệ để các em không bỏ học giữa chừng. Có hôm trời mưa, học trò đến lớp ướt sũng, áo quần dính bùn, có em rét run nhưng vẫn ngồi chăm chú nghe giảng... nhìn mà thương lắm!”

Điểm trường tiểu học ở bản Ón hiện có 97 học sinh, chia thành 5 nhóm lớp, trong đó có 1 lớp ghép hai trình độ, với 4 thầy giáo trực tiếp giảng dạy. Mỗi thầy kiêm nhiều môn học, vừa dạy chữ vừa hướng dẫn các em kỹ năng sống, bảo vệ bản thân. Thầy Chuân kể, những năm trước, chỉ cần mưa lớn là học sinh nghỉ gần hết. Có hôm thầy, cô phải lội suối, leo dốc đến từng nhà vận động, đi cả ngày chỉ thuyết phục được một em quay lại lớp. “Giờ duy trì được sĩ số ổn định là cả một kỳ tích”, thầy nói, giọng nhỏ nhẹ nhưng mắt ánh lên niềm thương học trò.

Theo thầy Chuân, điều đáng mừng là nhận thức của người dân bản Ón đã đổi thay. Nếu trước kia, việc học còn bị xem là xa xỉ, thì nay ai cũng hiểu “có chữ mới có tương lai”. Ngày càng nhiều học sinh bản Ón theo học tại trung tâm, có em ra Hà Nội học nghề.

Một ngày của thầy Chuân và các đồng nghiệp bắt đầu từ tinh mơ và kết thúc khi sương rừng đã phủ trắng. Giữa những vất vả, họ vẫn giữ niềm vui giản dị: thấy học trò đến lớp đông hơn, nghe tiếng đánh vần, tiếng cười trẻ thơ trong lớp học nhỏ, nhìn mái trường trên “ngã ba” biên giới rộn ràng hơn mỗi ngày.

Ở nơi sóng điện thoại vẫn chập chờn, đường sá mùa mưa lầy lội, hành trình “gieo chữ” của các thầy giáo bản Ón vẫn tiếp tục, lặng lẽ mà bền bỉ. Họ chẳng nói nhiều về sự hy sinh, chỉ nhẹ nhàng bảo nhau: “Học trò còn đến lớp, còn tiếng trẻ ê a, là mình còn ở lại”. Câu nói ấy như một lời thề thầm lặng, gói ghém trong đó tất cả tình yêu nghề, tình thương trò và trách nhiệm của người “gieo chữ” vùng biên.

Chia sẻ về những vất vả của thầy, cô bám bản, ông Nguyễn Văn Dũng, Chủ tịch UBND xã Tam Chung, cho biết: “Giáo dục vùng biên luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Chính quyền xã luôn phối hợp với các nhà trường để vận động học sinh đến lớp, đồng thời kêu gọi các tổ chức, cá nhân hỗ trợ cơ sở vật chất, bữa ăn bán trú cho các em. Tuy nhiên, do địa bàn rộng, giao thông khó khăn, nguồn lực hạn chế nên vẫn còn nhiều thiếu thốn. Thời gian tới, xã sẽ tiếp tục ưu tiên đầu tư hạ tầng giao thông, huy động thêm các nguồn lực xã hội để giúp các thầy cô yên tâm giảng dạy”.

Giữa đại ngàn Tam Chung, trong tiếng gió hú và mây phủ trắng rừng, có những người thầy, người cô vẫn ngày ngày lặng lẽ bước đi, bền bỉ gieo những hạt chữ, ươm mầm tri thức và thắp lên hy vọng cho tương lai của học trò nơi “ngã ba” biên giới.

Bài và ảnh: Đình Giang



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]