(vhds.baothanhhoa.vn) - Là con trai của một trong những thủ lĩnh khởi nghĩa Ba Đình - Hoàng Bật Đạt, Hoàng Xuân Viện quê làng Bộ Đầu, xã Hậu Lộc (trước đây thuộc xã Thuần Lộc, huyện Hậu Lộc) là người trí dũng, không ngại dấn thân trong các phong trào yêu nước. Ông cũng là thầy thuốc với tấm lòng nhân đức, được người dân mến mộ.

Hoàng Xuân Viện: “Không làm tướng tài thì làm thầy thuốc giỏi”

Là con trai của một trong những thủ lĩnh khởi nghĩa Ba Đình - Hoàng Bật Đạt, Hoàng Xuân Viện quê làng Bộ Đầu, xã Hậu Lộc (trước đây thuộc xã Thuần Lộc, huyện Hậu Lộc) là người trí dũng, không ngại dấn thân trong các phong trào yêu nước. Ông cũng là thầy thuốc với tấm lòng nhân đức, được người dân mến mộ.

Hoàng Xuân Viện: “Không làm tướng tài thì làm thầy thuốc giỏi”

Cùng với cha mình, cụ Hoàng Xuân Viện được hậu thế phụng thờ tại Di tích lịch sử văn hóa nhà thờ Hoàng Bật Đạt.

Hoàng Bật Đạt được biết đến là một trong những nhà yêu nước có nhiều đóng góp trong phong trào Cần Vương. Ông vốn làm quan triều đình nhà Nguyễn. Thực dân Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông cáo quan về quê xây dựng lực lượng đánh giặc. Khi căn cứ Ba Đình được thành lập, với tài năng quân sự và lực lượng nắm giữ, Hoàng Bật Đạt được cử làm phó tướng trong bộ chỉ huy khởi nghĩa Ba Đình. “Ông đã cùng với bộ chỉ huy nghiên cứu, chỉ đạo xây dựng thành Ba Đình, một căn cứ độc đáo của cuộc khởi nghĩa Nhân dân ở vùng đồng bằng ven biển” (sách Địa chí Hậu Lộc, NXB Khoa học xã hội, 2018).

Cha là thủ lĩnh phong trào Cần Vương chống Pháp, Hoàng Xuân Viện khi ấy dù tuổi còn trẻ (ông sinh năm 1871) song với truyền thống gia đình, lại được rèn dũa nghiêm khắc nên sớm bộc lộ là một thanh niên ưu tú. Năm 1886, mới 15 tuổi, Hoàng Xuân Viện đã tham gia chiến đấu trong trận tập kích vào Bút Sơn - phủ lỵ Hoằng Hóa (huyện Hoằng Hóa trước đây). Để tham gia trận đánh, bấy giờ Hoàng Xuân Viện cùng các nghĩa quân đã âm thầm vượt sông Bút, phối hợp với lực lượng bên Hoằng Hóa và Quảng Xương (vượt sông Mã đánh sang). Cuộc tập kích dù không giành được kết quả như mong đợi song đã khiến thực dân Pháp hoảng sợ.

Giữa năm 1886, trước những thay đổi của phong trào đấu tranh và sức ép càn quét, đàn áp của kẻ địch, sau hội nghị Bồng Trung, lãnh đạo phong trào đấu tranh trong tỉnh xác định, phải xây dựng được một căn cứ đủ mạnh, tập hợp lực lượng. Và Ba Đình (huyện Nga Sơn trước đây) được lựa chọn. Căn cứ Ba Đình là “cửa ngõ, yết hầu” quan trọng của miền Trung, từ đây có thể trở thành bàn đạp để tấn công kẻ địch. Hoàng Bật Đạt trở thành một trong ba vị chỉ huy cao nhất trong xây dựng căn cứ và chiến đấu ở Ba Đình. Bấy giờ, Hoàng Xuân Viện giữ trọng trách phó tướng trực tiếp phụ trách đồn Mỹ Khê (đồn Hạ).

Hoàng Xuân Viện: “Không làm tướng tài thì làm thầy thuốc giỏi”

Làng Bộ Đầu nằm bên sông Ấu (Trà giang) là quê hương của cụ Hoàng Xuân Viện.

Tuổi còn trẻ song với tài năng và bản lĩnh, Hoàng Xuân Viện được quân sĩ dưới trướng nể trọng. Không chỉ vậy, ông còn khéo léo, chân tình để đối đãi với người trên, kẻ dưới. “Tại đồn Mỹ Khê, Hoàng Xuân Viện đã cùng với các chiến hữu chiến đấu dũng cảm, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của địch, gây cho chúng nhiều tổn thất” (sách Danh nhân Thanh Hóa).

Dẫu vậy, tương quan về lực lượng, vũ khí và nhiều yếu tố khiến căn cứ Ba Đình sau một thời gian thì bị thất thủ. Các tướng sĩ của khởi nghĩa buộc phải rút lui khỏi nơi đây. Thủ lĩnh Hoàng Bật Đạt rơi vào tay giặc, vì không chịu khuất phục, ông bị thực dân Pháp xử tử. Ôm mối hận “nợ nước, thù nhà” song tình thế buộc người thanh niên Hoàng Xuân Viện phải lựa chọn rút lui. Ông trở về quê nhà, làm bạn với sách vở.

Khoa thi năm Tân Mão (1891) Hoàng Xuân Viện đỗ Tú tài. Tuy nhiên, mang trong mình những âu lo thời cuộc và nỗi niềm của kẻ sĩ, ông lựa chọn không tiếp tục tiến thân bằng con đường khoa cử.

Là người theo học chữ nho song Hoàng Xuân Viện cũng là trí sĩ có tư tưởng cấp tiến. Ông quan tâm đến các phong trào yêu nước thời bấy giờ, như phong trào Đông Du; Duy Tân; Đông Kinh, Nghĩa Thục... Hưởng ứng phong trào yêu nước, ông viết lời hiệu triệu kêu gọi quần chúng, thanh niên cùng tham gia. Những vần thơ của ông đến nay còn được hậu thế nhắc nhớ, như: “Cả hăm lăm triệu vừa trai gái/ Ta quyết xum tay một đận (trận) này”.

Lo lắng trước sự lan tỏa và sức mạnh của các phong trào yêu nước, thực dân Pháp tìm cách truy lùng, bắt bớ những người tham gia, trong đó có Hoàng Xuân Viện. Không thể khiến ông khuất phục, kẻ xâm lược kết án ông 5 năm tù khổ sai, đày đi Côn Đảo. Hết hạn tù, ông trở về quê nhà, sống những năm tháng bị quản thúc. Bấy giờ, do sức khỏe suy yếu, Hoàng Xuân Viện lựa chọn dạy chữ cho học trò và làm nghề bốc thuốc cứu người.

Hoàng Xuân Viện: “Không làm tướng tài thì làm thầy thuốc giỏi”

Chiếc hộp thuốc chữa bệnh cứu người của cụ Hoàng Xuân Viện được con cháu giữ gìn cho đến ngày nay.

Anh Hoàng Quốc Cường, hậu duệ của cụ Hoàng Xuân Viện, cho biết: “Tôi nghe ông bà kể rằng, các cụ ngày xưa theo học chữ Nho, việc biết về “nho, y, lý, số” cũng là điều không hiếm. Song với cụ Hoàng Xuân Viện thì khác, vốn là người đa tài, lúc còn trẻ cụ nổi tiếng trí dũng, giỏi đánh trận. Đến khi có tuổi, về sống nơi quê nhà, dù thời thế, vận mệnh đất nước khiến bậc sĩ phu không khỏi ngậm ngùi song không vì thế mà cụ sống cuộc đời vô nghĩa. Cụ dùng những hiểu biết, tri thức để dạy chữ, chữa bệnh cho người dân trong vùng. Sau khi cụ mất, nghề thuốc được cụ truyền lại cho con. Gần 100 năm trôi qua, một trong những di vật gắn liền với nghề “cứu người” của cụ Hoàng Xuân Viện là chiếc hộp thuốc vẫn được gia đình giữ lại, là một kỷ vật vô giá”.

Lại có chuyện kể rằng, dù bị chính quyền thực dân quản thúc nhưng cụ Hoàng Xuân Viện vẫn đau đáu nỗi niềm và những âu lo của bậc trí thức trước họa mất nước. Ông gửi gắm trăn trở, tâm tư của mình trong những vần thơ còn truyền lại đến ngày nay, như: “Bốn bề rành những người mê ngủ/ Biết ngỏ cùng ai chuyện nhỏ nhe”. Và nổi bật trong số đó là bài thơ “Trị ghẻ” đầy tâm tư: “Bầy ghẻ mày ơi, tớ bảo này/ Cớ sao lần quất mãi chi đây?/ Ngoài thì ăn hết làn da mỏng/ Trong lại dùi thêm tấm thịt dày/ Sâu trắng đục ngầm không kể xiết/ Nước vàng chảy mãi có ai hay/ Nhân ngôn, máu chó không nhằm mặt (nhắm mắt)/ Quyết tán diêm sinh để trị mày”.

Nói về thầy thuốc Hoàng Xuân Viện, ông Hoàng Sĩ Tuy, trưởng thôn Bộ Đầu, xã Hậu Lộc, chia sẻ: “Ở vùng đất này, nhắc đến cụ Hoàng Xuân Viện, người già trong làng vẫn thường kể cho cháu con nghe về tài năng, tâm đức cứu giúp người của bậc tiền nhân. Cụ chữa bệnh cứu người không màng danh lợi. Vì thế mà được người dân rất mực quý mến, tiếng thơm còn lưu đến ngày nay”.

Bài và ảnh: Khánh Lộc



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]