Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Di chỉ Núi Đọ - Từ “dấu chân” loài người đến sự phát triển xã hội
V ùng đất địa linh nhân kiệt xứ Thanh là nơi hội tụ đậm đặc các di tích khảo cổ từ thời tiền sử , với những “gương mặt văn hóa” rất tiêu biểu như di chỉ Núi Đọ, hang Con Moong, di chỉ văn hóa Hoa Lộc và đặc biệt là văn hóa Đông Sơn. Đáng quý hơn, c ác di tích đã và đang được chính quyền và người dân chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị. Qua đó, góp phần tạo nên sức mạnh nội sinh cho phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội địa phương.

Núi Đọ
Xã hội loài người được hình thành và phát triển dựa trên nhiều cơ sở, trong đó, nhân tố có tính quyết định là sự “tiến hóa” của phương thức sản xuất và tư liệu sản xuất. Và hình thức sơ khai nhất của phương thức và tư liệu sản xuất được thể hiện đậm nét qua các công cụ bằng đá cổ xưa được tìm thấy tại di chỉ Núi Đọ.
Núi Đọ toạ lạc ở hữu ngạn sông Chu, nơi hợp lưu của sông Chu - sông Mã, có độ cao gần 160m, sườn dốc thoải và dáng dấp không thật nổi bật. Thế nhưng, các nhà nghiên cứu khảo cổ đã chỉ ra rằng, lưu vực sông Mã, sông Chu và các dải núi ở đôi bờ hai con sông từ thời Cánh Tân đã có con người sinh sống. Dấu vết của người vượn cũng như những công cụ lao động của họ đã được tìm thấy ở núi Đọ (thuộc địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh cũ; nay là phường Đông Tiến, tỉnh Thanh Hóa).
Theo đó, dấu vết của người nguyên thuỷ - người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1960 tại di chỉ núi Đọ. Quá trình nghiên cứu, các nhà khảo cổ học nhấn mạnh về sự tồn tại của một nền văn hoá sơ kì thời đại đồ đá cũ mang tên “văn hoá núi Ðọ”, bao gồm một hệ thống các di tích sơ kì thời đại đồ đá là núi Ðọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.
Loại đá tạo nên núi Đọ là đá kết thực hạt mịn, màu xanh xám và khá cứng nên khi ghè đẽo tuy khó nhưng dễ tạo ra cạnh rất sắc, phù hợp với việc chế tạo công cụ thời nguyên thủy. Trên sườn núi Đọ, ở độ cao 30-40m còn có nhiều đá bazan gốc. Người nguyên thủy ở núi Đọ đã dùng đá đẽo đá. Họ đã ghè vỡ đá núi để chế tác thành những công cụ bằng đá như mảnh tước, hạch đá, rìu tay... Ngoài các loại rìu và công cụ gần hình rìu, họ còn tạo ra các mảnh tước để dùng trong việc cắt gọt và các hạch đá, các công cụ chặt thô. Ngày nay, trên sườn núi Ðọ, hàng vạn mảnh tước (mảnh ghè khi người nguyên thuỷ chế tác công cụ) vẫn còn nằm rải rác, nhất là sườn phía Ðông và phía Tây Nam.
Người nguyên thủy sống chủ yếu bằng hái lượm và săn bắt. Trải qua hàng vạn năm, những người nguyên thủy núi Đọ đã không ngừng biến đổi, sáng tạo để thích nghi với môi trường sống và phát triển thành những cộng đồng người. Mở đầu thời đại đồng thau ven đôi bờ sông Mã, sông Chu chính là lớp cư dân Cồn Chân Tiên nằm sát chân phía Đông Nam núi Đọ. Lớp cư dân này đã trở thành cốt lõi đầu tiên trong việc hình thành bộ Cửu Chân của nhà nước Văn Lang.
Người Cồn Chân Tiên đã từng đạt tới trình độ cao trong kỹ thuật chế tác đá. Họ sử dụng phổ biến và thành thạo kỹ thuật mài, tạo ra các loại rìu mài vát một bên. Đặc biệt, họ còn làm được nhiều đồ gốm nung (nồi, vò, bát, đĩa), chế tạo bàn xoay, có trang trí hoa văn và nhiều chì lưới. Để rồi, từ văn hóa Cồn Chân Tiên, con người đã bước vào nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, với nhiều chứng tích tìm thấy ở xã Thiệu Dương (cũ).
Tại Thiệu Dương, ngoài rìu đồng được con người sử dụng để khai phá đất đai. Hơn thế, họ đã có thêm những công cụ bằng đồng, bằng sắt như lưỡi cày, lưỡi liềm, mai, thuổng và đặc biệt là lưỡi cày cánh bướm. Trong một đợt khai quật, các nhà khảo cổ đã thu được 11 lưỡi cày cánh bướm, 2 chiếc liềm đồng và nhiều xương đầu trâu. Những công cụ bằng đồng và nguồn sức kéo đã cho phép họ mở rộng diện tích trồng trọt trên quy mô lớn, tạo tiền đề quan trọng để thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Bên cạnh đó, nhiều ngành nghề mới cũng đã xuất hiện, như nghề đánh cá với các lưỡi câu có ngạnh. Nghề đan lát với các kiểu đan lóng một, lóng đôi, lóng nia, lóng thúng. Đặc biệt, các dọi xe chỉ bằng gốm và dấu tích vải tìm thấy trong các mộ ở Thiệu Dương, chứng tỏ nghề dệt đã có mặt. Nghề gốm đã cho ra lò nhiều sản phẩm có độ nung cao, được trang trí hoa văn tinh tế. Nghề đúc đồng phát triển cực thịnh, làm được nhiều loại vũ khí và đồ dùng (mũi lao, mũi tên, rìu, dao găm, kiếm, giáo, lưỡi cày, lưỡi đục, kim khâu, ấm đồng, thạp đông, trống đồng, đồ trang sức, lục lạc). Các thợ đá chuyển sang chế tác đồ trang sức. Thợ làm nhà, thợ đóng thuyền và làm công cụ, đồ dùng bằng gỗ ngày càng nhiều...
Chính hạt nhân Cồn Chân Tiên - với cái nôi là người nguyên thủy núi Đọ và sau đó là Thiệu Dương, đã đặt nền móng cho sự hình thành của đô thị Tư Phố nức tiếng với những hoạt động buôn bán tấp nập và đầu mối giao thông thủy bộ của cả vùng từ năm 111 trước CN. Tư Phố tọa lạc giữa ngã ba sông Mã - sông Chu đã trở thành đầu mối gắn kết các tụ điểm dân cư Thiệu Dương, Đông Sơn, núi Nấp, núi Sỏi, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ. Đồng thời, thúc đẩy nghề nông, nghề làm vườn, nghề chăn nuôi, nghề đánh cá, nghề gốm, nghề dệt và nghề rèn sắt phát triển. Đặc biệt, cũng chính từ trung tâm Tư Phố đã nuôi dưỡng nên những thủ lĩnh người Việt, để phát triển thành những hào trưởng cự tộc có ảnh hưởng lớn trong vùng và cả nước như Dương Đình Nghệ ở Dương Xá (làng Giàng, Thiệu Dương), Lê Lương ở Bối Lý (Thiệu Trung).
...
Những câu chuyện từ thuở hồng hoang của loài người đã được kể lại đầy sinh động và thuyết phục qua di chỉ khảo cổ núi Đọ và nhất là qua “những câu chuyện của đá”. Đi từ thời đồ đá, với các mảnh tước, rìu đá dùng trong săn bắt, hái lượm; qua thời đại đồng thau với nhiều vật dụng bằng gốm nung như nồi, vò, bát, đĩa... Có thể nói, con người đã bước một bước dài hàng vạn năm để chuyển từ người nguyên thủy “ăn lông ở lỗ” sang lớp cư dân Cồn Chân Tiên - cơ sở hình thành bộ Cửu Chân thuộc nhà nước Văn Lang sau này. Đồng thời, từ văn hóa Cồn Chân Tiên, con người nơi đây đã mở dần cánh cửa để bước chân vào nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ.
Việc người nguyên thủy chọn vùng núi Đọ làm nơi quần tụ, chắc hẳn là bởi những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cuộc sống thời bấy giờ. Song, điều đáng quý hơn cả, những con người từ buổi hồng hoang ấy đã vượt qua cuộc đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt của thời gian để tồn tại và phát triển đầy mạnh mẽ, đầy thuyết phục và đầy tinh thần văn hóa.
Khôi Nguyên
{name} - {time}
-
2025-11-17 07:47:00Coi trọng vai trò của cộng đồng trong bảo vệ giá trị di sản
-
2025-11-15 21:03:00Một thập kỷ bảo vệ và phát huy Di sản UNESCO nghi lễ và trò chơi kéo co
-
2025-11-15 14:21:00Trải nghiệm văn hóa độc đáo ở lễ hội Chá Mùn






