(vhds.baothanhhoa.vn) - Từ xa xưa, chè là thức uống quen thuộc với người Việt. Cây chè được trồng rộng rãi ở nhiều nơi, đặc biệt thích hợp với khu vực đồi núi. Xứ Thanh có nhiều vùng trồng chè nổi tiếng...

Tâm tư trên những vùng chè (Bài 1): Lưu lại “dấu” chè...

Từ xa xưa, chè là thức uống quen thuộc với người Việt. Cây chè được trồng rộng rãi ở nhiều nơi, đặc biệt thích hợp với khu vực đồi núi. Xứ Thanh có nhiều vùng trồng chè nổi tiếng...

Tâm tư trên những vùng chè (Bài 1): Lưu lại “dấu” chè...Chọn những ngày có nắng, người phụ nữ Thái thu hái chè để chế biến chè Tán Ma.

1. Vùng đất cổ Vạn Lại - Yên Trường (xã Thuận Minh và Thọ Lập, huyện Thọ Xuân) từng là “kinh đô kháng chiến” gắn liền với sự nghiệp Trung hưng nhà Lê trong lịch sử. Nơi đây, với điều kiện thổ nhưỡng đặc biệt, thích hợp với cây chè, vì thế mà giống chè Sánh Lược được người xa gần yêu thích.

Cây chè xanh vốn mọc hoang rậm trên những cánh rừng già từ ngàn vạn năm. Nhưng còn giống chè Sánh Lược, xuất hiện ở vùng đất cổ Vạn Lại - Yên Trường tự bao giờ? Lưu truyền dân gian kể rằng, công chúa Mai Hoa là chị gái vua Lê Thế Tông (có tài liệu cho rằng bà là con gái vua Lê Thế Tông?!), khi Vạn Lại - Yên Trường là “kinh đô kháng chiến” của nhà Lê Trung hưng, bà đã sát cánh cùng nhà vua ở vùng đất này.

Tại đây, bà đã quen biết vị giáo sĩ người Bồ Đào Nha vào Thanh Hóa truyền đạo. Mối tình giữa bà và vị giáo sĩ phương Tây đã nảy nở, tuy nhiên vì nhiều nguyên do mà mối tình dang dở. Về sau, công chúa Mai Hoa thành người theo đạo. Bà lại được người dân nhắc đến với tên gọi “Bà Chúa Chè”. Bởi trong thời gian tiếp xúc với những người phương Tây, công chúa Mai Hoa đã biết đến việc sử dụng chè khô, thậm chí bà còn “tham vọng” nghĩ rằng có thể trồng và bán chè cho người nước ngoài. Nhờ tâm huyết và sự đầu tư của công chúa nhà Lê, một vùng đồi đất vốn cằn cỗi bên sông Chu đã từng bước được phủ kín, xanh mát. Dù chưa thể “xuất khẩu” như khát vọng của công chúa Mai Hoa, song chè Sánh Lược đã trở thành hàng hóa được trao đổi rộng rãi khắp vùng.

Về tên gọi chè Sánh Lược, người dân địa phương cho rằng, ngoài việc cây chè khi xưa được trồng ở vùng đồi đất Yên Lược (thuộc xã Thọ Lập và Thuận Minh) thì nguyên do trực tiếp là bởi chè được bán nhiều ở chợ Lược (làng Lược, xã Thuận Minh) và chợ Sánh (làng Sánh, tức làng Yên Trường, xã Thọ Lập). Xưa kia, cả hai chợ đều gần bến sông Chu, người muôn phương đến buôn bán, trao đổi hàng hóa tấp nập. Tại chợ Sánh - Lược, chè xanh là một trong những sản vật được nhiều người tìm mua.

Chè xanh Sánh Lược lá nhỏ, ngả sắc hơi vàng, lá dầy và giòn, khi pha nước có vị chát ban đầu đặc trưng và ngọt hậu vị, lại thêm mùi hương đặc trưng, được người tiêu dùng ưa thích. Cũng bởi ngon nức tiếng mà chè xanh Sánh Lược đã theo người đi muôn phương.

Theo nhà nghiên cứu lịch sử Hoàng Hùng, thì truyền ngôn dân gian và cả dấu tích đền thờ Bà Chúa Chè trên đất Yên Trường - Vạn Lại xưa, hậu thế có thể tin rằng, nhiều thế kỷ về trước, trong những biến động của lịch sử dân tộc, đã có một công chúa Mai Hoa - người có công lớn tạo nên danh tiếng của chè Sánh Lược. Với khát vọng của mình, công chúa Mai Hoa đã đưa cây chè trên vùng đất Vạn Lại - Yên Trường phát triển với quy mô lớn... Chính sự đan xen của lịch sử và truyền thuyết đã mang đến nhiều điều thú vị cho “thương hiệu” chè Sánh Lược.

Trải qua biến thiên và thăng trầm lịch sử, những vạt đồi chè xanh Sánh Lược dẫu không còn được duy trì quy mô lớn song ở các vườn hộ gia đình vẫn mướt xanh cây chè Sánh Lược.

Có một điều đặc biệt, khác với nhiều cây trồng, tuổi chè không đo bằng kích thước mà được đánh giá qua vân mốc trên thân cây. Chè nhiều vân mốc, lá càng dầy là chè lâu năm, uống thêm đậm vị.

Bà Hoàng Thị Lam, một hộ trồng chè lâu năm ở thôn 1 Phúc Bồi, xã Thọ Lập, chia sẻ: “Khác với nhiều nơi, chè được hái búp để chế biến chè khô, chè Sánh Lược chỉ đơn thuần thu hái lá - dùng làm chè xanh, uống trực tiếp. Chỉ một dúm nhỏ chè xanh, ủ cùng nước sôi đã có bình chè xanh dùng cho cả ngày. Chè xanh lành và tốt cho sức khỏe. Chè xanh Sánh Lược dân dã, dễ trồng, dễ thu hái và bán mua cũng đơn giản”.

Ông Nguyễn Văn Đức, Phó Chủ tịch UBND xã Thọ Lập, cho biết: “Chè Sánh Lược gắn với đất và người Thọ Lập đã hằng trăm năm. Theo lời kể của các cụ, khi xưa diện tích chè ở địa phương khá lớn. Đến nay chè chỉ còn trồng rải rác tại một số vườn hộ ở thôn 1 Phúc Bồi. Với mong muốn bảo tồn, phát huy giá trị của giống chè quý, thời gian qua địa phương đã đấu mối với một số doanh nghiệp để khôi phục, mở rộng diện tích trồng chè. Hiện trên địa bàn xã có 16ha đất đã được quy hoạch để trồng chè".

2. Ngược ngàn lên núi rừng xứ Thanh, có một loại chè ngon được đồng bào dân tộc Thái đặt tên Tán Ma - mang ý nghĩa dùng để mời khách quý khi đến nhà.

Tâm tư trên những vùng chè (Bài 1): Lưu lại “dấu” chè...Chè xanh là thức uống quen thuộc với người Việt.

Từ cây chè xanh mọc hoang rậm trong rừng, xa xưa người Thái đã biết hái về nhà để chế biến chè Tán Ma. Ông Đinh Công Mạn, một người Thái ở bản Phụn, xã Trung Xuân (Quan Sơn) nói: "Không ai biết chè Tán Ma có từ bao giờ. Theo kinh nghiệm của người xưa truyền lại, người Thái khi đi rừng, nhìn thân và lá sẽ biết đâu là giống chè ngon. Vào những ngày nắng ráo, họ hái búp và lá chè còn non mang về nhà để chế biến chè Tán Ma".

Búp và lá chè sau khi hái về nhà được hong gió cho héo, sau đó dùng tay vò kỹ, ủ trong lá ráy hoặc mo cau để chè “lên men”. Bằng kinh nghiệm trao truyền, người làm chè sẽ biết ước lượng thời gian ủ thích hợp, sau đó chọn lúc được nắng lại mang ra ngoài phơi. Chè Tán Ma khô mà không giòn. Thông thường, chè Tán Ma khi pha cùng nước nóng có màu hơi đỏ, mùi thơm đặc trưng và uống vào có vị ngọt, không chát. Khi xưa, chè Tán Ma chủ yếu được hái trong rừng, số lượng không nhiều nên thường chỉ để mời khách. Ngày nay, cây chè được người dân trồng nhiều trong vườn nhà.

Vốn được xem là cây trồng “dễ tính”, tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng chè ngon thì việc trồng đòi hỏi nhiều yếu tố về thổ nhưỡng và khí hậu. Ngoài chè xanh Sánh Lược, chè Tán Ma, nhiều nơi ở Thanh Hóa cũng nổi tiếng với giống chè ngon truyền thống, là chè xanh Châu Tử ở xã Triệu Lộc (Hậu Lộc); chè Tâm Quy (Hà Trung); chè làng Núi (Thiệu Hóa); chè Trà Sơn (Hoằng Hóa); chè Bình Sơn (Triệu Sơn)... Vẫn là cây chè xanh dân dã, nhưng ở mỗi vùng trồng lại cho phong vị riêng, hấp dẫn người thưởng thức.

Bài và ảnh: Lương Khoa



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]