Trên đất Mường Danh
Nằm bên sông Mã, vùng đất Mường Danh (trước đây là xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Thủy) nay thuộc xã Cẩm Thạch là địa bàn sinh sống của đồng bào dân tộc Mường, Kinh, Dao. Với địa thế bằng phẳng, đất đai tốt tươi, lại “cận lộ, cận giang”, đem đến cho vùng đất Mường Danh cổ xưa nhiều thuận lợi để phát triển.

Cùng với người Mường, đồng bào dân tộc Dao sống trên đất Mường Danh xưa (nay là xã Cẩm Thạch) coi trọng việc gìn giữ các lễ tục văn hóa truyền thống.
Là một trong những Mường lớn, Mường Danh xưa - Cẩm Bình về sau (nay thuộc xã Cẩm Thạch) nằm ở vùng chuyển tiếp giữa miền xuôi với miền núi. Nơi đây nằm bên hữu ngạn sông Mã, lại có Quốc lộ 217 chạy qua, từ khá sớm, Mường Danh đã có điều kiện giao thương, phát triển.
Cũng bởi nằm bên sông, lại có hệ thống ao, hồ, khe suối nhỏ nên Mường Danh có thuận lợi về nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Dẫu vậy, vào mùa mưa, nước lũ dâng cao cũng gây ra không ít nguy cơ ngập úng. Những thế hệ người dân Mường Danh suốt hằng trăm năm qua đã vượt lên khó khăn, thiên tai, bám bản làng, cùng nhau dốc sức xây dựng quê hương, tạo nên một vùng đất trù phú bên sông Mã.
Mường Danh có con người đến cư ngụ từ bao giờ? Đến nay, vẫn chưa có khẳng định chắc chắn. Tuy nhiên, người dân địa phương thì tin rằng, nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền núi với đồng bằng, lại có sông Mã kế bên, di chuyển thuận tiện, từ rất sớm, những người Mường đầu tiên trong hành trình di chuyển tìm đất canh tác đã dừng chân ở Mường Danh. Còn theo sách Lịch sử Đảng bộ xã Cẩm Bình: “... Căn cứ vào các truyền thuyết, các câu chuyện kể dân gian và những di chỉ khảo cổ học tìm được tại khu vực làng Sanh, làng Chợ, làng Vinh... cho thấy cách đây hàng nghìn năm, vùng đất này đã có sự hiện diện của con người”.
Theo các tài liệu lưu giữ tại địa phương, vào thời Đinh, Lý, Trần, Mường Danh thuộc Cử Long man, đến thời Lê thuộc huyện Lạc Thủy và dưới thời vua Lê Thánh Tông được đổi tên thành huyện Cẩm Thủy.

Cẩm Bình trước đây (nay thuộc xã Cẩm Thạch) nổi tiếng với nghề trồng dong riềng và sản xuất miến dong.
Dẫu có con người đến cư ngụ từ sớm, song “đánh dấu” việc lập nên bản làng trên đất Mường Danh thì rõ nhất phải đến đầu thế kỷ XV. Lưu truyền dân gian kể rằng, bấy giờ, vào buổi loạn lạc, đất nước bị giặc Minh xâm lược, có một gia đình họ Phạm đã theo sông Mã đến khu vực (thuộc huyện Vĩnh Lộc cũ) để lánh nạn. Sau khi Bình Định vương Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi, lên ngôi vua lập nên nhà Lê (Hậu Lê), làng mạc bình yên trở lại, gia đình họ Phạm lại ngược dòng sông Mã đi tìm đất tốt để an cư. Khi đó đến Gành Sanh (thuộc làng Sanh ngày nay) trên đất Mường Danh, thấy thế đất bằng phẳng, cảnh vật tốt tươi nên đã quyết định dừng chân. Bằng sự chăm chỉ, họ khai khẩn đất hoang, phát lau sậy, trồng cây, từng bước lập nên xóm làng. Qua thời gian, người tìm về làng Sanh sinh sống ngày một thêm đông, song dòng họ Phạm ở làng Sanh vẫn có vị thế, tiếng nói nhất định.
Cũng dưới thời nhà Lê, có viên tướng Lê Thọ, ông vâng lệnh vua đi đánh giặc. Khi thắng trận trở về, ông qua vùng đất Mường Danh thì đêm xuống nên phải dừng chân dựng lán cho quân sĩ nghỉ ngơi. Sáng dậy thấy nơi đây cảnh sắc sơn thủy hữu tình, có núi đá vôi, phía dưới là dòng sông Mã mềm mại như dải lụa, trên bờ là một dải đất bằng phẳng, màu mỡ... Vùng đất ấy khiến viên tướng họ Lê yêu thích, nhưng vì việc quân, ông phải dẫn quân về lại Thăng Long. Nhiều năm sau đó, ở biên thùy lại có giặc quấy phá. Là viên tướng thiện chiến, tướng quân Lê Thọ đã dẫn quân đánh dẹp, ông trở về với nhiều chiến lợi phẩm thu được cùng với hơn 300 tù binh. Bấy giờ, vì đã có tuổi, tướng Lê Thọ xin vua ban cho ông vùng đất (thuộc Mường Danh) mà nhiều năm trước ông đã có dịp ghé qua, ông cũng xin vua cho phép dẫn theo các tù binh cùng đi để khai khẩn đất hoang. Được nhà vua đồng ý, viên tướng họ Lê liền đem theo gia quyến và tù binh đến đất Mường Danh dựng nhà cửa, khai hoang lập làng, đặt tên là Bình Điền Sách. Những tù binh người Chiêm Thành khi đến đây cũng được phép lấy vợ, sinh con, cùng góp sức xây dựng thôn làng.
Vốn là vùng đất ít người sinh sống, đi qua thời gian, nhờ sức người cần lao và những nỗ lực, Mường Danh đã nhanh chóng trở thành một Mường rộng lớn và trù phú. Buổi ban đầu, trên đất Mường Danh, người Mường chiếm số đông. Về sau này, có thêm một số hộ người Dao đến đây sinh sống. Theo sách Lịch sử Đảng bộ xã Cẩm Bình: “Đến năm 1958, có 8 hộ dân tộc Dao di cư từ Quan Hóa xuống vùng đất xã Cẩm Bình sinh sống, Nhân dân các thôn Sổ, thôn Sẻ đã tạo điều kiện cho đất đai để dựng nhà cửa và sản xuất...” . Ngày nay đồng bào dân tộc Dao ở Cẩm Bình (cũ) chiếm khoảng 10% dân số, tập trung ở hai thôn Bình Yên và Bình Sơn.
Trên đất Mường Danh, đồng bào các dân tộc Mường, Kinh, Dao cùng nhau chung sống thuận hòa, nỗ lực mưu sinh, dựng xây, phát triển làng quê. Và cùng nhau gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống với những trang phục, lễ tục, mỹ tục lâu đời, như “Tết Nhảy”, lễ cấp sắc, nghề thêu... của người Dao.
Và với lợi thế đất đai tốt tươi, bên cạnh canh tác cây lúa nước, trên đất Mường Danh còn có một loại cây trồng - gắn liền nghề truyền thống, sản phẩm nổi tiếng của địa phương, đó là cây dong và nghề làm miến dong.

Một phần vùng đất Mường Danh bên sông Mã nhìn từ trên cao.
Thổ nhưỡng, khí hậu ở nơi đây đặc biệt thích hợp cho cây dong sinh trưởng, phát triển, cho chất lượng củ tốt, trong đó cây dong được trồng nhiều ở thôn Tô. Bước vào khoảng tháng 9 âm lịch cũng là thời điểm bắt đầu mùa thu hoạch củ dong. Củ dong sau khi được thu hoạch, sơ chế, xay lấy bột sẽ được sử dụng để làm miến dong. Khoảng thời gian từ tháng 9 đến cuối tháng 11 âm lịch là “mùa” làm miến dong ở Cẩm Bình trước đây- Cẩm Thạch hiện nay. Những năm qua, nghề làm miến dong đã góp phần vào việc nâng cao thu nhập cho người dân, phát triển kinh tế địa phương.
Bà Phạm Thị Thủy, chuyên viên phòng Văn hóa - xã hội xã Cẩm Thạch, cho biết: "Đi qua thời gian, từ buổi ban đầu tiền nhân đặt chân đến đây lập nên xóm làng, Mường Danh đã có nhiều đổi thay về diện mạo, ngày một phát triển. Tuy nhiên, phát triển nhưng không đánh mất truyền thống, không quên đi bản sắc văn hóa. Và một trong những niềm tự hào của đất và người Mường Danh còn là truyền thống đoàn kết, sẻ chia. Truyền thống ấy luôn được những thế hệ người dân gìn giữ, nhắc nhớ đến mỗi thế hệ”.
(Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong sách Truyền thuyết dựng bản - lập mường Thanh Hóa; Lịch sử Đảng bộ xã Cẩm Bình, NXB Văn hóa Thông tin, 2012)
Bài và ảnh: Trang Bùi
{name} - {time}
- 
                             2025-10-31 11:17:00 2025-10-31 11:17:00Khám phá Pù Luông: Vẻ đẹp hoang sơ níu chân du khách
- 
                             2025-10-29 10:51:00 2025-10-29 10:51:00Thanh Hóa - Góc nhìn từ trên cao: Nét đẹp vùng cao
- 
                             2025-10-29 09:18:00 2025-10-29 09:18:00Phú Quốc lọt top 4 điểm đến du lịch xu hướng toàn cầu trong năm 2026






