(vhds.baothanhhoa.vn) - Giữa núi rừng vùng cao, ruộng bậc thang uốn lượn, mềm mại tựa dải lụa, đẹp đến nao lòng. Ở nơi ấy, những thế hệ người dân cần lao đã vượt gian khó, chẳng quản ngại, bằng sức người bền bỉ tạo nên những thửa ruộng bậc thang.

Trên những “dải lụa” vùng cao xứ Thanh (Bài 1): Những thửa ruộng bậc thang

Giữa núi rừng vùng cao, ruộng bậc thang uốn lượn, mềm mại tựa dải lụa, đẹp đến nao lòng. Ở nơi ấy, những thế hệ người dân cần lao đã vượt gian khó, chẳng quản ngại, bằng sức người bền bỉ tạo nên những thửa ruộng bậc thang.

Trên những “dải lụa” vùng cao xứ Thanh (Bài 1): Những thửa ruộng bậc thang

Ruộng bậc thang là phương thức canh tác nông nghiệp của người dân vùng cao.

Miền Tây xứ Thanh đẹp như bức tranh - một bức tranh vừa hùng vĩ mà rất đỗi thơ mộng. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, những dải ruộng bậc thang men theo triền núi, đồi như điểm nhấn độc đáo. Ruộng bậc thang là “kiệt tác” của khát vọng sinh tồn và sức người lao động bền bỉ. Nếu ở khu vực đồng bằng, những cánh đồng phì nhiêu bằng phẳng được tạo nên bởi quá trình bồi đắp lâu dài của phù sa sông, thì ruộng bậc thang ở miền thượng du như một “kỳ tích” được tạo nên bởi con người với quyết tâm: “có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Để đến ngày nay, ruộng bậc thang không chỉ là tài sản mà còn là di sản - di sản được tạo nên bởi khát vọng sống và sự sáng tạo trong lao động của đồng bào các dân tộc miền núi.

Ruộng bậc thang là một phương thức canh tác, hiểu thông thường là cách người dân sống ở khu vực miền núi “cải tạo” đất đồi núi, tạo nên ruộng nước trồng lúa. Những dải ruộng bậc thang “gối” lên nhau theo sườn đồi núi. Mỗi “bậc” ruộng được người dân “giữ nước” bằng cách đắp bờ (đất hoặc đá). Việc khai khẩn, tạo nên ruộng bậc thang là một quá trình lâu dài, được tiếp nối bởi những thế hệ.

Rất khó để khẳng định chính xác ruộng bậc thang bắt đầu xuất hiện từ khoảng thời gian nào. Nhưng có một điều chắc chắn, để tạo nên những bậc ruộng nối tiếp nhau thì đó là quá trình kéo dài đến cả trăm năm. Và đó cũng là hành trình của mồ hôi, công sức nhằm hiện thực hóa khát vọng no đủ.

Nằm dưới chân núi, bên sông Chu, thôn Thanh Xuân (bản Mạ) xã Thường Xuân vốn là một bản làng người Thái sinh sống lâu đời. Nơi đây địa hình đồi núi, bị chia cắt, vì thế, từ xa xưa để sinh tồn, những người dân đã tạo nên ruộng bậc thang. Cũng do đặc điểm địa hình hẹp nên ruộng bậc thang ở Thanh Xuân không lớn. Nhưng rồi, bởi người không phụ đất nên những thửa ruộng bậc thang đã đáp ơn người bằng những mùa vàng no ấm.

Ông Lữ Thanh Xuân, một trong những hộ có ruộng bậc thang nhiều nhất ở thôn Thanh Xuân, chia sẻ: Toàn bộ diện tích ruộng bậc thang của gia đình tôi đều do ông bà để lại. Tôi từng được nghe người già kể, để có những thửa ruộng bậc thang như hiện nay có thể phải tính bằng những năm tháng đời người. Hãy cứ tưởng tượng, người xưa đã kỳ công thế nào trong việc chọn đất, rồi khai vỡ, cuốc, cày... nhọc nhằn sao tính hết. Ruộng là tài sản ông cha để lại. Việc tạo ra ruộng bậc thang vốn đã nhọc nhằn, nhưng canh tác trên đó cũng vất vả không kém. Do địa hình dốc, hẹp, rất khó để đưa cơ giới hóa vào sản xuất, vì thế hiện nay, từ việc cày cấy, chăm sóc, thu hoạch vẫn chủ yếu dựa vào sức người và gia súc (trâu bò).

Ruộng bậc thang được tạo nên trên những sườn đồi, song không phải tất cả các sườn đồi đều thích hợp để khai phá, tạo nên. Bằng kinh nghiệm dân gian và tri thức bản địa, người xưa đã chọn những khu vực có độ dốc vừa phải, thuận tiện cho việc lấy nước, dẫn nước và san thành tầng - bậc, tạo nên ruộng bậc thang.

Và trong sản xuất nông nghiệp - trồng lúa, nước có vai trò quan trọng. Tạo nên ruộng bậc thang đã khó, làm thế nào để dẫn nước và giữ nước cho ruộng cũng là một thách thức. Để giải quyết vấn đề này, những cư dân nông nghiệp vùng cao đã sáng tạo dẫn nước vào ruộng theo dòng chảy bằng cách đắp bai (phai) và làm guồng (cọn) nước. Lại có nơi, người dân tận dụng nguồn nước tự nhiên từ trên núi theo các dòng suối chảy về, không đắp bai, thay vào đó là hệ thống mương (ống dẫn) nước về ruộng. Bằng những cách làm khác nhau để ruộng luôn có nước cho cây lúa phát triển.

Khi nắng hanh hao “nhuộm” không gian sắc vàng lấp lánh như mật ngọt, cũng là khoảng thời gian thật đẹp cho một chuyến ngược ngàn lên vùng cao xứ Thanh. Thả lòng mình giữa thiên nhiên ban sơ, hít hà mùi hương của núi rừng trong lành, thưởng thức món ăn của người dân địa phương và lắng nghe những chuyện kể về quá trình lập dựng bản làng cùng nỗ lực vượt lên nghịch cảnh để mưu sinh, những nét đẹp văn hóa được gìn giữ, trao truyền... Đó thực sự là một hành trình thú vị.

Những vạt đất dưới chân đồi thấp, dọc các thung lũng được người xưa chọn để làm ruộng bậc thang. Trái ngược với sự hạn chế về chiều rộng, ruộng bậc thang thường kéo dài tít tắp, uốn lượn theo hình thế núi, đồi. Và theo kinh nghiệm dân gian, để một khu đất đồi núi có thể trở thành ruộng bậc thang, phải tốn nhiều công sức và thời gian ít nhất cũng phải 3 năm (hay 3 vụ) với nhiều sự tác động thì cây lúa mới có thể bén rễ. Cũng vì thế, tục ngữ dân gian Mường có câu, đại ý, vỡ đất 3 năm mới thành ruộng.

Canh tác trên ruộng bậc thang, cho đến nay người nông dân vùng cao vẫn chủ yếu phải dựa vào các nông cụ đơn giản như cày, bừa. “Cày phổ biến là cày loại “chìa vôi”. Đặc trưng của loại cày này là lưỡi cày nhỏ, khả năng lật đất đều, thích hợp với các chân ruộng cạn nên phổ biến ở vùng núi. Theo cày (thân cày) bằng gỗ lim (loại gỗ chắc, bền, khó bị gãy). Bắp cày được làm bằng tre già (đoạn gốc của cây tre) vai cày được làm từ loại gỗ nhẹ nhưng dai, gọt nhẵn để êm vai trâu, bò khi cày bừa, kéo gỗ, luồng. Chão cày (hoặc bừa) là loại dây rừng có tên dây cóc hoặc dây nần. Đây là loại dây rừng có độ dai bền, chịu được mưa nắng... (sách Địa chí huyện Bá Thước, NXB Lao động, 2015). Việc đưa cơ giới hóa vào ruộng bậc thang còn rất hạn chế.

Bông lúa, hạt gạo được tạo nên từ ruộng bậc thang phải trải qua nhiều thời gian và mất nhiều công sức, cũng bởi sự trân quý với lúa gạo mà người Thái có câu nói: “Có thóc, có mọi thứ” hay “Thóc gạo ngồi trên/ Vàng bạc ngồi dưới”. Cũng trong quan niệm của người Thái từ xa xưa, ruộng nước có vai trò quan trọng hơn nương rẫy: “Rẫy đầy đồng cỏ tranh không bằng một khoanh ruộng mạ”.

“Ngày nay, khi lên với các xã miền núi, chúng ta dễ dàng bắt gặp những thửa ruộng bậc thang - một “nét vẽ” quen thuộc, mộc mạc. Từ một phương thức sản xuất được con người sáng tạo, gìn giữ và phát triển, đến nay ruộng bậc thang còn như một thành tố “nhận diện” không gian văn hóa vùng cao... Thuở xa xưa, khi tiền nhân biết lấy đá làm rìu, lấy cây móc làm mai đã cần mẫn chẳng quản nhọc nhằn, để mồ hôi rớt xuống, qua thời gian mà nên ruộng bậc. Chính vì thế, giữ gìn, phát huy giá trị của ruộng bậc thang không chỉ là việc gìn giữ một phương thức sản xuất, mà còn là một di sản”, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hà Nam Ninh nhấn mạnh.

Bài và ảnh: Thu Trang



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]