(vhds.baothanhhoa.vn) - Độc giả Hoàng Anh Thi (Hà Nội) hỏi: “Mấy năm nay rộ lên chuyện một số từ như “chén”, “nhá”, “tợp” xuất hiện trong sách Tiếng Việt lớp 1. Nhiều ý kiến phản đối quyết liệt, cho rằng đây là những từ “thô tục”, không phù hợp với trẻ em tiểu học. Đơn cử, bài “Sách giáo khoa đầy “sạn”: Thu hồi, chỉnh sửa hay để đó cho qua”... trên một tờ báo đăng ý kiến của ông HMH, cho rằng:

“Chén” có phải là “từ kém văn hóa”, “mất lịch sự”?

Độc giả Hoàng Anh Thi (Hà Nội) hỏi: “Mấy năm nay rộ lên chuyện một số từ như “chén”, “nhá”, “tợp” xuất hiện trong sách Tiếng Việt lớp 1. Nhiều ý kiến phản đối quyết liệt, cho rằng đây là những từ “thô tục”, không phù hợp với trẻ em tiểu học. Đơn cử, bài “Sách giáo khoa đầy “sạn”: Thu hồi, chỉnh sửa hay để đó cho qua”... trên một tờ báo đăng ý kiến của ông HMH, cho rằng:

“Chén” có phải là “từ kém văn hóa”, “mất lịch sự”?

“Quê tôi ở Nam Định, nhiều khi người ta vẫn dùng từ “nhá” với nghĩa là “ăn”. Nhưng chỉ những đám lôm côm nói với nhau: “Mày cố mà nhá cho hết cái đống ấy đi”. Một việc gì đó khó khăn, nặng nhọc người ta cũng dùng từ này để diễn tả: “Xem chừng vụ này nhá không trôi!”. Vì là từ thông tục, nên đôi khi người lớn sử dụng để quát trẻ con, chứ trẻ con không được dùng với người lớn. Trong học đường không được phép dùng những từ tương tự.

Với từ “chén” cũng là từ kém văn hóa, thiếu tôn trọng. Người ta có thể nói: “Con mèo chén ba con cá”. Nhưng trong các bài tập Tiếng Việt lớp 1, mèo và cá là con vật được nhân cách hóa thành nhân vật của truyện ngụ ngôn thì không thể dùng từ “chén” một cách mất lịch sự như thế được”...

Một số bài báo khác thì cho rằng “chén”, “tợp”, “nhá” là những từ “thô tục”, “nghĩa xấu” không phù hợp với học sinh lớp 1. Thú thật, tôi hơi băn khoăn, vì thường ngày tôi vẫn dùng những từ này. Vậy, xin chuyên mục Cà kê chuyện chữ nghĩa cho biết đây có phải là những từ “kém văn hóa”, “thô tục” không? Và bắt nguồn từ đâu mà gọi ăn uống là “chén”?”.

Trả lời:

Chúng tôi cho rằng, những ý kiến trên đây có phần nặng về cảm tính. Sự thực, bản thân những từ chén, tợp, nhá, không mang nghĩa mặc định là “kém văn hóa”, “mất lịch sự”, hay “thô tục”, mà tùy thuộc vào ngữ cảnh.

1. Từ “cái chén” đến “đánh chén”:

“Chén”, là một từ Việt gốc Hán, vốn từ chữ “trản” (chỉ loại chén nhỏ mà cạn lòng; như Bình minh nhất trản trà/ Lương y bất đáo gia). Về ngữ âm TR (trản) biến thành CH (chén), ta còn thấy trong rất nhiều trường hợp khác, như: trà -> chè; tranh#chanh (chanh/tranh nhau); thốc#chốc (ghẻ); thị#chợ,... Còn AN biến thành EN, ta còn thấy trong các trường hợp như: hạn#hẹn (hẹn giờ); vãn#vén (vén áo lên); hàn#hèn (hèn mọn),...

Trong tiếng Việt, chén, vốn chỉ một loại đồ đựng để uống rượu, sau có thêm nghĩa phái sinh, chỉ uống rượu, ăn uống. Điều này cũng không có gì lạ. Ví như chữ “bôi” #t trong Hán ngữ, vốn chỉ cái chén quý để rót rượu, sau có thêm nghĩa là uống rượu.

Từ điển Việt-Bồ-La (1651) đã thấy ghi nhận “chén”, ngoài nghĩa chỉ “chén ly”, thì “một chén” còn có nghĩa là “một bữa rượu, một lần uống rượu”. Hay Từ điển Génibrel (J.F.M. 1898) ghi nhận chén với nghĩa ăn uống: “đánh chén”, “chén đã quá say”.

Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê - Vietlex) xếp “chén” vào loại từ “thông tục” (tức phổ biến, giản dị, mộc mạc, quen thuộc trong dân chúng), và giảng là “ăn, về mặt coi như một thú vui”. Tiếng Việt có từ “quá chén”, hay “mượn chén làm say”, cho thấy “chén” vốn chỉ việc uống rượu. Mà uống rượu thì thường “nhâm nhi”, “nhắm nháp” một cách thú vị, nên “chén” có nghĩa là “ăn, về mặt coi như một thú vui” là vậy.

“Chén” không hề mang “nghĩa xấu”, “kém văn hóa” hay “mất lịch sự”.

Trong bài “Cảnh rừng Việt Bắc” (Hồ Chí Minh) có câu: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay/ Vượn hót chim kêu suốt cả ngày/ Khách đến thì mời ngô nếp nướng/ Săn về thường CHÉN thịt rừng quay/,...”. Thì chữ “chén” ở đây là nói lên cái thú sinh hoạt dân dã, giản dị nhưng không kém phần tao nhã, nơi “non xanh nước biếc...”.

Trở lại với chữ “chén” trong sách giáo khoa: “Cò kiếm ăn ở ven hồ. Gặp cá rô, nó ra vẻ thật thà: - Dăm hôm nữa, hồ bị tát cạn, cá tôm sẽ bị bắt hết. Đàn cá nhờ cò giúp. Cò hứa đưa đàn cá đến xóm bên. Lũ cá nghe cò. Thế là cò dần dần chén hết đàn cá”.

Trong đoạn văn này, từ “chén” cũng không hề có nghĩa “kém văn hóa”, “mất lịch sự”, mà ngược lại, nó rất đắt để ám chỉ con cò đã ăn một cách ngon lành cái thứ mà đáng ra không được phép ăn. Theo đây, nếu ta thay “chén” bằng “xơi” - một từ mà Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức), giảng là “Ăn, uống (tiếng lịch-sự nói với bậc trên)” - thì cũng sẽ cho hiệu quả tu từ tương tự: phê phán, mỉa mai cái sự ăn uống ngon lành kia của cò. Hoặc giả, dùng “chén”, “xơi” trong các ngữ cảnh như: Chén hết công quỹ; Xơi hết công quỹ,...

2. Tiếng mẹ đẻ sao gọi là “xấu”?

Ngày xưa, mẹ nhai cơm cho con, gọi là nhá cơm. Trong ca dao, thơ phú, từ nhá cũng không hề mang nghĩa xấu: Cau xanh nhá lẫn trầu vàng/ Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.” (Ca dao); “Nhá rau còn tiếc mùi canh ngọt/ Nếm ếch còn tham có giống măng.” (Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Nếu thay từ nhá trong câu “Mày cố mà nhá cho hết cái đống ấy đi”; “Xem chừng vụ này nhá không trôi!”, bằng các từ nhai, nuốt, ăn (không hề “thông tục”), sẽ thành: “Mày cố mà NHAI cho hết cái đống ấy đi”; “Xem chừng vụ này NUỐT không trôi!”, thì câu văn đâu có vì thế mà trở nên “lịch sự” hơn?

Tương tự, từ “tợp” trong “chó tợp” là một cách dùng từ rất “đắt” để chỉ sự đớp nhanh lấy miếng mồi của con vật.

Tất cả những từ mà nhiều người e rằng “mất lịch sự”, “kém văn hóa”, “thô tục”, “không phù hợp với học sinh lớp 1”, thực ra đều là những từ thuộc “tiếng mẹ đẻ”. Ấy từ những ngữ đầu tiên mà một đứa bé được cảm nhận, lắng nghe từ khi còn trong bụng mẹ. Sinh ra và lớn lên, hàng ngày qua cách học truyền khẩu, tiếp thu và sử dụng bằng trực giác, kinh nghiệm, những từ ngữ thông tục sẽ là những từ ngữ đầu tiên một đứa bé học được từ mẹ đẻ, trước khi tiếp thu ngôn ngữ hàn lâm, văn chương ở trường lớp.

Một đứa bé lên lên bốn, lên năm, nếu biết nói: “Đừng lại đó, chó nó tợp cho một miếng giờ!”, sẽ được đánh giá cao hơn nhiều về độ tinh tế trong sử dụng tiếng mẹ đẻ, so với đứa bé dùng từ “cắn” để diễn đạt.

Theo đây, một người ngoại quốc học tiếng Việt qua từ điển, trường lớp, thì sẽ dùng “ăn” thay cho tất cả những từ như chén, nhá. Trong khi người Việt nói tiếng mẹ đẻ, sẽ có sự phân biệt khi nào thì dùng ăn, khi nào thì dùng chén, nhá,... để tạo nên hiệu quả của điều mình diễn đạt.

Như vậy, quan điểm của chúng tôi, với những từ như chén, nhá, tợp,... nếu trẻ được dạy sử dụng đúng ngữ cảnh, thì không có gì xấu và không cần hạn chế về độ tuổi tiếp cận. Vì như đã nói ở trên, trước tuổi cắp sách đến trường, tất cả những từ ấy, đã được trẻ lắng nghe, tiếp thu từ ông bà, bố mẹ qua giao tiếp hàng ngày rồi.

Hoàng Tuấn Công



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]