(vhds.baothanhhoa.vn) - Lễ hội Lam Kinh được xem là đại diện tiêu biểu cho nét đẹp văn hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các anh hùng dân tộc gắn liền với các di tích đền thờ miếu mạo của người Việt. Với nhiều giá trị đặc trưng, lễ hội này là nét chấm phá tiêu biểu trong kho tàng văn hóa xứ Thanh, góp phần làm dày thêm cho kho tàng văn hóa Việt, biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết và tình yêu nước nồng nàn.

Lễ hội Lam Kinh: Gạch nối quá khứ và hiện tại

Lễ hội Lam Kinh được xem là đại diện tiêu biểu cho nét đẹp văn hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các anh hùng dân tộc gắn liền với các di tích đền thờ miếu mạo của người Việt. Với nhiều giá trị đặc trưng, lễ hội này là nét chấm phá tiêu biểu trong kho tàng văn hóa xứ Thanh, góp phần làm dày thêm cho kho tàng văn hóa Việt, biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết và tình yêu nước nồng nàn.

Lễ hội Lam Kinh: Gạch nối quá khứ và hiện tại

Lễ hội Lam Kinh.

Mang ý nghĩa là “kinh đô tưởng niệm” của vương triều Hậu Lê, Lam Kinh là sự hòa quyện giữa tư tưởng đậm triết lý nhân văn, tinh thần dân tộc và tinh hoa kiến trúc Việt. Sách “Việt sử thông giám cương mục” đã ghi lại những lần xây dựng Lam Kinh: Năm 1433 vua Lê Thái tổ mất, thi hài được đưa về Lam Kinh, an táng ở Vĩnh Lăng, tháng 12 cùng năm “các quan theo hầu về Tây Kinh dựng Miếu Điện Lam Sơn”. Đến tháng 4 năm 1434, Vua Lê Thái tông sai “Hữu bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu thờ Thái mẫu”. Cứ vài ba năm một lần, vua và các quan trong triều đình nhà Lê lại vào Lam Kinh hành lễ, để tưởng nhớ công đức khai sáng cơ nghiệp của Vua Lê Thái tổ. Các nghi thức hành lễ đều thực hiện nghi thức cung đình. Nghi thức cúng tế gồm: “tế tẩm miếu dùng bốn con trâu, đánh trống đồng, quân lính reo hò hưởng ứng theo. Về nhạc võ thì múa nhạc “Bình Ngô phá trận”. Văn thì múa nhạc “Chư hầu lai triều”. Đại tư đồ Lê Bí đến làm lễ ở miếu Chiêu Hiến vương (tên là Học, anh ruột Lê Lợi) và Trung Dũng vương (tên là Thạch, con Lê Học) dùng ba con trâu. Thượng thư lệnh Lê Khang đến làm lễ ở miếu Hoàng Dụ vương (tên là Trừ, anh thứ hai của Lê Lợi) dùng một con trâu.

Trải qua nhiều biến cố, triều Lê sụp đổ và khu miếu điện Lam Kinh cũng theo đó mà suy tàn. Đồng thời, những nghi thức tế lễ mang tính cung đình cũng đã biến mất trong “đời sống” của Lam Kinh suốt một thời gian dài. Phải đến đầu thế kỷ XX, làng Lam Sơn mới dựng ngôi đền thờ ngay trên đất Lam Kinh, để thờ Vua Lê Thái tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai và Bạch Y Công chúa, nhiều nghi thức lễ tế cũng dần được khôi phục.

Lễ hội Lam Kinh: Gạch nối quá khứ và hiện tại

Trình diễn trò diễn Xuân Phả tại Lễ hội Lam Kinh.

Ngày nay, lễ hội Lam Kinh diễn ra vào các ngày 21, 22-8 âm lịch hàng năm với nhiều lễ nghi trang trọng và linh thiêng. Phần lễ với các nghi thức rước linh vị, tấu cáo tiên tổ thành kính, nghiêm cẩn. Phần hội tái hiện lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với các dấu mốc quan trọng, như Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, giải phóng thành Đông Quan, Lê Thái tổ đăng quang cùng nhiều trò chơi, trò diễn độc đáo: trò Xuân Phả, múa rồng... vô cùng đặc sắc, ấn tượng, ví như bản hòa âm nghệ thuật đậm đà bản sắc vùng văn hóa Lam Sơn và văn hóa dân tộc.

Theo thời gian và dòng chảy của lịch sử, văn hóa, lễ hội Lam Kinh dần không còn bó hẹp trong khuôn phép cung đình, mà được hòa vào trong cộng đồng, ăn sâu bén rễ vào đời sống của người dân, được người dân vùng đất Lam Sơn thực hành, gìn giữ. Lam Kinh đã trở thành di sản đặc biệt được hậu thế ngưỡng vọng và tìm về chiêm bái mỗi độ lễ hội “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Và rồi, lễ hội Lam Kinh đã thực sự trở thành gạch nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp cho lịch sử luôn sống mãi trong thế hệ mai sau.

Nằm không gian văn hóa đặc sắc, cùng các giá trị to lớn và bất biến Lễ hội Lam Kinh có thể ví như “một bảo tàng văn hóa”- “bảo tàng tâm thức” lưu giữ các giá trị văn hóa, các sinh hoạt văn hóa đặc sắc. Lễ hội Lam Kinh đã, đang góp vào kho tàng lễ hội, kho tàng văn hóa dân tộc cái phần bản sắc hay cái phần bất biến của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử, của văn hóa. Để rồi, bảo vệ văn hóa nói chung, bản sắc văn hóa nói riêng, là góp phần xây dựng quê hương đất nước thịnh vượng, hạnh phúc; là để tự tin hòa nhập với thế giới, chứ không phải bị “hòa tan” trong kỷ nguyên công nghệ.

Nhóm PV Thời sự



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]