Chiều tím, tím ngát lối về
Đi nhiều rồi tôi mới hiểu mỗi vùng đất dường như đều cất giấu một câu chuyện riêng, cũng giống như con người ta vẫn hay giấu kín những nỗi niềm sâu lắng chẳng dễ giãi bày. Trong buổi chiều của chuyến công tác xa, khi bánh xe lăn đều trên triền đồi hay lướt qua dòng sông lấp lóa nắng quái, tôi thường bắt gặp những vạt hoa tím trải dài miên man bên đường. Thứ màu tím mộc mạc ấy, cứa nhẹ vào lòng tôi một nỗi nhớ rất cũ: Hoa chiều tím.

Hoa “chiều tím”, cái tên nghe sao mà thương. Loài hoa năm cánh mỏng như cánh bướm, tím ngan ngát và khiêm nhường. Người ta thấy nó mọc khắp nơi, từ phố thị ồn ào đến những nẻo biên viễn xa xôi, với sức sống bền bỉ, chẳng đòi hỏi phải nâng niu, chăm bẵm. Vậy mà giữa muôn vàn loài hoa phô sắc khoe hương, tôi lại chỉ nặng lòng với cái màu tím giản dị ấy. Bởi với tôi, cái màu tím âm thầm, lặng lẽ kia là màu của ký ức, màu của bà nội.
Bố vẫn thường bảo tôi là bản sao của bà. Giống từ dáng hình, khuôn mặt, đến cả những sở thích tỉ mẩn như đan len, làm bánh mứt. Người ta không thể lựa chọn những điều mình được thừa hưởng, nhưng có những thứ mình mang theo như một định mệnh, và tôi thấy mình may mắn khi được thừa hưởng phần dịu dàng lặng lẽ của bà.
Bà nội tôi là người đàn bà cặm cụi suốt một đời. Một mình bà gồng gánh nuôi năm người con đi qua những ngày tháng cơm độn, áo vá. Bố kể, ngày xưa bà nhận đan len gia công cho hợp tác xã. Những đêm dài trong căn nhà cũ, tiếng guồng quay chia len, tiếng que đan lách cách va vào nhau đều đều như nhịp thở của gian khó. Cũng nhờ thế mà năm anh chị em bố, ai cũng biết đan len từ tấm bé. Bố tôi đan cốt, kiểu đan cho gấu áo hay bo tay khéo chẳng kém gì thợ. Khi tôi bắt đầu mê mẩn những cuộn len sắc màu, bố chính là người thầy đầu tiên.
Tôi, đứa cháu gái của người con trai cả, đứa cháu mà bà đón tay khi bố đã qua tuổi băm, nên có lẽ vì thế mà tôi giữ được nhiều kỷ vật của bà nhất. Một chiếc áo bà đan tận dụng từ những sợi len thừa đủ màu, một chiếc mũ hình con mèo bé xíu với những kiểu đan thay đổi tinh tế. Tôi học mẹ, gói ghém chúng cẩn thận, cất giữ như cất giữ kỷ niệm tuổi thơ, để mỗi lần chạm vào là thấy lại hơi ấm bàn tay bà trong từng mũi kim, đường chỉ.
Khi bắt đầu hiểu chuyện, tôi đã thấy bà sống một cuộc đời cô độc trong nếp nhà nhỏ của riêng mình. Bà không ở chung với bất kỳ ai trong số năm người con. Bà bảo bà già rồi, bệnh tật, trái tính trái nết, không muốn phiền con cháu. Dù bố tôi và các chú các bác vẫn thường xuyên qua lại chăm nom, nhưng căn nhà ít hơi người nên vẫn quạnh quẽ. Sau này tôi mới hiểu, sự cô độc của bà không phải là sự chối bỏ tình thân. Đó là lựa chọn đầy tự trọng của một người đàn bà đã quá quen với việc một mình “đứng mũi chịu sào” trước giông bão cuộc đời.
Bà tôi trồng một vạt hoa chiều tím ở góc sân nhỏ, ngay dưới ô cửa sổ gian bà nằm. Mỗi bận bố chở tôi về thăm, bà lại ngồi chẻ những thanh nan tre nhỏ, cắm bông hoa tím biếc vào đầu que thành từng bó cho tôi chơi. Những cánh hoa mỏng manh rung rinh trên que nan khô giòn vì thế mà trở thành hình ảnh găm sâu vào ký ức tuổi thơ tôi. Thoảng có những lần về chơi, vạt chiều tím chưa kịp ra lứa hoa mới, bà lại ngồi nơi hiên nhà, xoa đầu tôi rồi dấm dúi vào tay đứa cháu nhỏ mấy viên “bi zon zon”. Thứ bánh làm từ bột nếp, vo tròn rồi rán vàng trong mỡ, cắn vào nghe giòn thơm, lốc cốc vui tai.
Ai đó nói: càng nghèo, con người ta càng kiệm lời. Bà tôi đúng là như thế. Bà nghèo từ thuở thanh xuân đến lúc về già, nghèo đến mức lời nói cũng chắt chiu như chiu chắt từng bò gạo trong chum, từng bó củi sau chái bếp. Nhưng chỉ những ai lớn lên trong sự tĩnh lặng ấy mới thấu hiểu: đôi khi, im lặng chính là cách yêu thương sâu sắc, bền bỉ nhất.
Mãi sau này, khi chính mình nằm trên giường bệnh, tôi mới thực sự thấu hiểu mà rưng rưng thương cái sự “cô độc” ngày xưa của bà. Cái nỗi sợ “phiền lụy” con cháu nó lớn đến mức bà thà chọn lủi thủi, cô độc, cặm cụi một mình trong những tháng ngày đằng đẵng. Nỗi sợ ấy không vô cớ, nó sinh ra từ những năm tháng gian truân một mình chèo chống. Bà đã quá quen với vai trò của người che chở, gánh sóng, chắn bão... nên bà lóng ngóng, ngượng nghịu khi được người khác chăm sóc, sẻ chia.
Sự hy sinh vốn dĩ mang muôn ngàn gương mặt. Có người chọn lao mình vào nơi hòn tên mũi đạn, có người ngậm ngùi xếp lại những đam mê dang dở. Còn với bà nội tôi, sự hy sinh mang dáng hình của nỗi cô đơn. Bà tự nguyện thu mình lại, nhận phần quạnh quẽ để nhường trọn sự bình yên cho con cháu, cốt để nụ cười các cháu, các con được trọn vẹn, chẳng phải gợn lên nét ưu tư hay giấu giếm một nỗi lo toan nào. Đó là một cách yêu thương quá đỗi âm thầm, cao thượng, nhưng càng ngẫm càng thấy xót xa.
Một người bạn từng nói với tôi: “Khi thêm tuổi hoặc đi qua biến cố, người ta thường hay ngoái lại những ngày xưa cũ”. Tôi thấy điều đó thấm thía vô cùng. Càng đi nhiều, càng va vấp và trải qua những thăng trầm, tôi lại càng thương kính sự giản dị, kiên cường và lòng tự trọng của bà. Tôi tự hỏi, những người phụ nữ thế hệ bà tôi, những người đã quen “đứng mũi chịu sào”, liệu sự cô độc ấy có thực sự là điều họ muốn chọn, hay đó chỉ là một phần của “thiên chức” hy sinh mà họ tự khoác lên mình?
Những chặng đường tôi qua, những vùng đất tôi tới, tất cả đều mở ra cho tôi cái nhìn mới mẻ và bao dung hơn. Nhưng lòng tôi vẫn luôn chùng lại khi gặp những vạt hoa chiều tím khoe sắc bên đường. Loài hoa mỏng manh mà kiêu hãnh, nhỏ bé mà can trường, sao giống bà tôi đến thế, giống cả những người phụ nữ đã dành trọn đời mình cho những hy sinh thầm lặng. Và sắc hoa ấy cũng chính là phần ký ức tôi mãi mang theo, tím ngát, mênh mang và thảo thơm như một chiều muộn nơi lối về nhà nội.
Thanh Nhu
{name} - {time}
-
2025-11-21 08:50:00Vị quê hương...
-
2025-11-20 10:58:00Những cây cầu thương nhớ
-
2025-11-19 19:00:00[Podcast Tản văn]: Những mùa hoa ẩn sau bụi phấn


![[Podcast Tản văn]: Những mùa hoa ẩn sau bụi phấn](http://c.baothanhhoa.vn/media/img/256/news/2546/146d3135619t05384l1-download9.webp)



