(vhds.baothanhhoa.vn) - Nằm bên dòng Lãng Giang, Cầu Quan, xã Trung Chính (Nông Cống) là địa danh quen thuộc với bao người. Không chỉ là trung tâm giao thương buôn bán sầm uất của cả vùng, Cầu Quan còn là vùng đất "ấp ôm" những dấu tích lịch sử, văn hóa truyền thống.

Đất Cầu Quan bên dòng Lãng Giang

Nằm bên dòng Lãng Giang, Cầu Quan, xã Trung Chính (Nông Cống) là địa danh quen thuộc với bao người. Không chỉ là trung tâm giao thương buôn bán sầm uất của cả vùng, Cầu Quan còn là vùng đất “ấp ôm” những dấu tích lịch sử, văn hóa truyền thống.

Đất Cầu Quan bên dòng Lãng Giang

Phong cảnh làng Đông Cao (nằm gần núi Nưa) trên đất Cầu Quan xưa, Trung Chính ngày nay.

Từ TP Thanh Hóa, đi về phía Tây Nam chưa đầy 20km sẽ “bắt gặp” Cầu Quan - trung tâm buôn bán sầm uất của huyện Nông Cống. Để đến Cầu Quan, du khách còn có thể đi từ huyện Triệu Sơn xuống thị xã Nghi Sơn hay sang huyện Như Xuân, Như Thanh. Cũng chính bởi địa thế thuận lợi, Cầu Quan xưa, Trung Chính ngày nay, từ nhiều thế kỷ về trước đã trở thành nơi “hội tụ” của các tuyến giao thông thủy, bộ.

Gắn bó với đất và người Cầu Quan là dòng Lãng Giang - còn được biết đến với tên gọi sông Nhơm. Bắt nguồn từ Như Thanh, sông Nhơm “theo chân” núi Nưa về Nông Cống, qua đất Cầu Quan, được đặt tên là Lãng Giang. Lý giải cho sự “đổi tên” thơ mộng, theo các nhà nghiên cứu thì "sông Nhơm khi về đến hạ lưu do độ dốc thấp, quá trình đào lòng theo chiều ngang diễn ra mạnh nên sông thường uốn mình quanh các bờ bãi tạo nên bên lở, bên bồi... Về mùa khô, nước chảy chậm lại nên có tên là Lãn Giang, tức “sông lười”, sau này đọc chệch thành Lãng Giang”. Lại có cách giải thích cho rằng, Lãng Giang là dòng sông chảy lãng đãng. Và dù hiểu theo cách nào, thì dòng Lãng Giang chảy qua hầu khắp các làng của đất Cầu Quan (7/8 làng truyền thống) đã tạo nên những “ảnh hưởng” đậm nét cả trong sự phát triển kinh tế và đời sống, văn hóa lễ hội.

Thuở xưa, khi giao thông đường thủy còn giữ vai trò trọng yếu, dòng Lãng Giang được xem là tuyến giao thông quan trọng của cả vùng. “Thuyền bè chở lâm, thổ sản từ miền núi về, chở hải sản, hàng hóa từ vùng biển lên luôn tấp nập. Từ thời tiền Lê, Lê Hoàn đã cho đào một số kênh nối các tuyến giao thông đường thủy trong tỉnh gồm sông Cầu Chày, sông Chu, sông Mã, sông Hoàng, sông Yên,... gọi chung là hệ thống kênh Nhà Lê. Bởi vậy, từ Trung Chính theo dòng Lãng Giang có thể đi đến nhiều miền trong tỉnh. Bằng các phương tiện đường sông, Nhân dân từ các huyện miền biển như Quảng Xương, Tĩnh Gia (tức thị xã Nghi Sơn ngày nay) hay xa hơn là Nghệ An đưa hải sản về Cầu Quan tiêu thụ rồi lại rời bến Cầu Quan khi các con thuyền đã đầy ắp lúa gạo, nông sản” (sách “Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng xã Trung Chính”).

Đất Cầu Quan bên dòng Lãng Giang

Di tích lịch sử, văn hóa đình làng Đông Cao là nơi thờ Thành hoàng làng và ba vị khai quốc công thần nhà Lê.

Sự tấp nập trên bến, dưới thuyền đã tạo nên một vùng đất Cầu Quan có độ “mở” trong phát triển kinh tế, sớm trở thành trung tâm giao thương sầm uất của cả vùng.

Cũng bởi “đất lành, chim đậu”, từ rất sớm đã có con người đến cư ngụ, lập nên các xóm làng bên dòng “sông lười”. Người dân địa phương tin rằng, quá trình lập làng ở đất Cầu Quan có thể diễn ra từ cả ngàn năm về trước. Đến thế kỷ XV, vùng đất cổ trở thành “lộc điền” vua ban cho các quan đại thần có công lớn.

Sử sách cho biết, sau khi dẹp loạn Nghi Dân, Lê Thánh Tông lên ngôi vua đã có nhiều sách lược để phát triển đất nước. Nhà vua chú trọng đến việc phát triển kinh tế, nông nghiệp, bảo đảm lương thực... Và vùng đất Nông Cống đất đai tốt tươi được vua Lê Thánh Tông ban cho nhiều quan lại làm lộc điền. Trong đó, Đinh Công Đột, con trai trưởng của Đinh Liệt - khai quốc công thần nhà Lê (và là cháu Đinh Lễ, Đinh Bồ) đã từ đất Mỹ Lâm (được cho là thuộc Ngọc Lặc ngày nay) về Trung Chính lập nghiệp.

Bấy giờ, Đinh Công Đột làm đến chức Thượng thư Bộ binh, được vua Lê Thánh Tông ban cho vùng đất bên sông Lãng Giang (Trung Chính ngày nay). Ông đến làng Thị (tức làng Bi Kiều), thấy đất đai màu mỡ, cảnh vật tươi đẹp, con người nhân ái nên đã ở lại. Tuy nhiên, sau một thời gian nhận ra, đất làng Bi Kiều tuy đẹp song thế đất chật hẹp, khó có thể mở mang, phát triển nông nghiệp nên ông đã để người con nuôi ở lại làng Bi Kiều, còn mình thì dời vào làng Đống Cải (tức làng Đông Cao ngày nay) ở sát chân núi Nưa nhằm mở mang, phát triển nông nghiệp, lập nên thái ấp, xây dựng đền thờ họ Đinh.

Sau khi ông Đinh Công Đột mất, người dân địa phương đã tôn ông làm Thành hoàng làng Đông Cao. Tại đền (nay là Di tích lịch sử, văn hóa đình làng Đông Cao) còn thờ cả Tam quốc công (ba vị khai quốc công thần nhà Lê) là Đinh Lễ, Đinh Bồ, Đinh Liệt.

Theo các tài liệu lưu giữ tại địa phương, ở vùng đất Trung Chính thời bấy giờ cũng là nơi “đất lành” với nhiều quan lại nhà Lê. Bởi ngoài con cháu Đinh Liệt còn có gia đình của khai quốc công thần Vũ Uy, Lê Hiểm... Cũng nhờ sự lớn mạnh của các dòng họ công thần đã từng bước góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của một dải đất Cầu Quan bên sông Lãng Giang.

Đất Cầu Quan bên dòng Lãng Giang

Văn bia Cầu Quan (Cầu Quan Bi Kiều) được lưu giữ tại đình làng Bi Kiều.

Và bởi địa thế thuận lợi, đất đai tốt tươi, con người hòa hợp, không ngừng nỗ lực vươn lên, không lâu sau Cầu Quan đã trở thành một vùng kinh tế phát triển vượt bậc, góp phần vào sự giàu mạnh của đất Nông Cống bấy giờ. “... đồng điền mở ra đẩy lùi rừng núi, chợ búa được mở mang, Nông Cống trở thành đất “cơm gạo” cho cả tỉnh”.

Đầu thế kỷ XVII, chúa Trịnh Tùng khi về thăm vùng đất bên sông Lãng Giang đã cho dựng cầu bắc qua sông, đặt tên Cầu Quan. Văn bia Cầu Quan viết về việc dựng cầu hơn 400 năm trước cho hậu thế biết thêm nhiều điều về “bức tranh” Cầu Quan thời bấy giờ: “... Dòng nước bạc vây quanh, núi sông đẹp lạ lùng, đất thiêng, người tài, công hầu khanh tướng nhiều, sản vật dồi dào, xóm làng quần tụ, người qua lại đông vui. Muôn dân, vạn vật đều tốt đẹp. Thắng cảnh chẳng phải đây sao”.

Và “các họ công thần khi đến cắm đất lộc điền dựa vào các làng cổ sở tại, cộng cư và cộng canh, đồng thời du nhập các tục lệ và cách làm ăn nơi quê gốc, vừa biết khai thác, giữ gìn những cái hay, cái đẹp của địa phương mình đến. Cho nên nhiều tục lệ cũ của vùng Nưa còn lưu giữ trong các làng lộc điền, các kinh nghiệm làm ăn của vùng Nưa được phát huy, tạo nên nét đẹp văn hóa riêng của vùng Nưa - Cầu Quan” (sách “Hương đất Cầu Quan”).

Cùng với phát triển kinh tế sôi động, trên đất Cầu Quan hôm nay vẫn còn đó những trầm tích - dấu ấn văn hóa của vùng đất cổ. Là những đình làng uy nghiêm, nhà thờ dòng họ khang trang, lễ hội truyền thống rộn ràng và không gian làng quê bình yên, tươi đẹp... Đó là những di sản văn hóa đã được thế hệ ông cha tạo dựng, bồi đắp và hậu thế hôm nay, vẫn đang tiếp tục giữ gìn, phát huy giá trị, ông Lê Đình Hùng, Chủ tịch UBND xã Trung Chính cho biết n

(Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong các sách “Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng xã Trung Chính” và “Hương đất Cầu Quan”).

Bài và ảnh: Khánh Lộc



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]