(vhds.baothanhhoa.vn) - Sau những tập thơ và ký sự cuồn cuộn, đầy nhiệt huyết vấn đề của “Mạch sống làng”, nhà thơ Vũ Quang Trạch lại tiếp tục “mài đá” thành tin yêu với mảnh đất quý hương để cho ra mắt tập thơ “Đất nước biển bờ”.

“Đất nước biển bờ” và tình làng, nước trong thơ

Sau những tập thơ và ký sự cuồn cuộn, đầy nhiệt huyết vấn đề của “Mạch sống làng”, nhà thơ Vũ Quang Trạch lại tiếp tục “mài đá” thành tin yêu với mảnh đất quý hương để cho ra mắt tập thơ “Đất nước biển bờ”.

“Đất nước biển bờ” và tình làng, nước trong thơ

Nhà thơ Vũ Quang Trạch với tập thơ “Đất nước biển bờ”. Ảnh: Minh Chi

Tập thơ có 50 bài được tuyển chọn từ những bài thơ viết về làng, nước, chiến tranh, anh hùng liệt sĩ và sự vươn tầm của quê hương, đất nước. Mở đầu tập thơ, ta thấy tình làng nghĩa xóm đong đầy trong những câu thơ về làng. Đó là một “Mái làng” thân yêu, nơi chôn rau cắt rốn, che chở nuôi dưỡng tinh thần bao thế hệ, là mái đình “sơn son thiếp vàng/ tráp gỗ sắc phong/ dài mỏng chân khuya găm tiếng côn trùng”. Nét rêu phong cổ kính nhắc nhở ta linh thiêng của hồn cốt quê nhà. Mái làng Hoàng Yến tựa như bao mái làng khác, một thời những hùng thiêng giờ trở nên âm trầm trong sắc của thời gian. Ông cũng có một mái đình của riêng mình với những vị thần, thánh, thành hoàng làng. Nói về mái làng, Vũ Quang Trạch trước hết lại gợi cho người đọc bước chân đầy trăn trở trong tiếng guốc gõ vào đêm, tiếng guốc nghiến đêm.

Cổ nhân từng nói: “nhạt như nước lã” nhưng “mái làng” của Vũ Quang Trạch là nơi nước lã đã thành những gì đậm đà, thân thiết tình nghĩa:

Lịm mắt cung diều gáo nước lã chờ trưa

Nắng làng chung uống.

(Mái làng)

Làng - mảnh đất nghèo túng, khó khăn, nhưng thiên tai, địch họa không làm giảm bớt sự lãng mạn. Trong những đêm không trăng, những ngày không gió, một cánh võng mắc vào đá núi nuôi lớn giấc mơ của thế hệ thanh niên làng Hoàng Yến.

Đầu võng mắc vào đá núi

Mắc vào tiếng làng không trăng.

(Vườn làng)

Trong tập thơ này đã ủ bao nhiêu là xa vắng, nhớ nhung và trân trọng nâng niu. Soi vào đáy lòng mẹ già trong làng ấy, đất ấy, hồn sông hồn núi thấy nối những đêm, những hiu quạnh, những nghị lực vượt nghịch cảnh trong một ngôi làng nhỏ bé. Vũ Quang Trạch đã từ những đơn sơ, mộc mạc, hiu quạnh, xa vắng của làng thắp lên tâm thức người đọc ngọn lửa của tình yêu, sự xúc động trào dâng, những linh thiêng trong sự vỗ về của tình yêu Tổ quốc...

Làng trong thơ Vũ Quang Trạch cũng như bao làng khác, nhưng được điểm thêm bởi tiếng tàu vào ra, mang theo hy vọng và nhớ thương, chờ đợi:

Ga xép cách làng tôi một cánh đồng

ngọn khói vít mảng trời cong xuống.

(Ngọn khói)

Ông bắt đầu từ mái làng đến vườn làng, mảnh làng, qua ga làng tới những mảnh đồi và những mảnh đời. Vẻ thô mộc đã được kết trong những tâm tình và công phu nghệ thuật. Ngọn khói làng giăng mắc trong hồn người làng những luyến lưu, dư vị, được mô tả theo tầm nhìn lên của những phận người bé bỏng. Ngôi làng với đồi núi lối đi là hẻm quanh co: "Ngọn khói để bầu trời nhỏ lại/ Nhỏ mà đầy/ Dài thêm đường tàu không đầu không cuối/ Tàu vẫn miệt mài chẻ hẻm núi đi ra/ Tóc tôi hoe/ Tóc tôi đen/ Tóc tôi sương sớm”.

Chuyến tàu qua ga của Vũ Quang Trạch là chuyến tàu hành trình dài hơn cả đời người với những sự tình kết thành khối nặng trĩu trong tim. Câu thơ đầy dư ba, nói ít hiểu nhiều. Từ làng ấy sang đình Thiên Tôn nơi “ngực đất mười ba vua chín chúa” vọng về tiếng của ngàn năm.

Thơ Vũ Quang Trạch cũng như mỗi trang viết ký của ông, là sự dốc bầu tâm sự với một sự kỳ công, vun vén, chắt chiu suy tưởng, lượm lặt gọt giũa, lựa chọn ngôn từ để biểu đạt như một nghệ nhân. Nhưng hòn đá làng Hoàng Yên thực chất vẫn chịu ảnh hưởng lớn của tự nhiên, còn sự thô ráp, mặn mòi vị biển và nỗi mệt nhoài của cánh đồi Hà Trung. Việc gọt giũa từ những gì rất đỗi xù xì, mộc mạc ở một vùng quê, thơ ông vì vậy thường không có độ bay nhưng có sức nặng của ân tình, sự chân thành của người làng. Những câu thơ tự do ngắn dài khấp khểnh như đoạn đường đi trầy trật của làng xưa, ông thả câu xuống dòng theo cảm xúc, có so sánh, ẩn dụ ví von và có cả sự chắc nịch kiểu như thành ngữ, tục ngữ của dân gian. Từ ngọn khói mà ông đã biểu đạt cả đời người, biểu đạt bao nhiêu thân phận người làng Hoàng Yến, nơi vượt những gian nan mà lừng lững như “con tàu chẻ hẻm núi đi ra”.

Mỗi một bài thơ là một cảnh huống, nhưng nổi bật là ký ức về thời hậu chiến, biểu tượng của tự do luôn gắn với vết thương chiến tranh. Do vậy, nói đến làng là nói đến nơi người anh liệt sĩ yên nghỉ, là nơi nỗi đau gắn với sự trân quý tưởng niệm sự hy sinh vì Tổ quốc: “Qua chỗ “anh nằm”/ Tôi ngắt những bóng mẫu đơn/ Cắm vào hơi thở/ Cắm im vào gió”. Đây là những câu thơ trong bài “Gương mặt anh” đã đạt giải trong Cuộc thi thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội 2021 - 2022. Ông đã tưởng niệm chiến sĩ phi công anh dũng hy sinh năm 1965 mà ông từng trực tiếp bên thi hài. Câu thơ rưng rưng cảm xúc trân trọng và mênh mang đau xót lẫn nhớ thương.

Từ làng - nơi chôn rau cắt rốn của mình, ông đã đặt chân đến những ngôi làng khác nhau của đất nước. Có thể đó là một “con đê gấp đời mình vào cửa gió” bên dòng sông Hoạt, là mái bếp ở Pù Luông “ở sau kia/ bản Mường thật lời bếp mế” là “lìm lịm đồi cam/ mặt người khát thương như màu đất khát”. Thơ ông ngợi ca những điểm đến lịch sử. Nhân vật trữ tình của thơ Vũ Quang Trạch là một người đàn ông làng, đi từ làng, nặng lòng với làng quê nhưng không dừng ở “lũy tre làng” mà đã từ ngôi làng ấy mang những lời mộc mạc để hòa nhịp hoan ca cùng biết bao ngôi làng trên đất Việt.

Việt Trì ơi! Rộng dài ngút ngát

Nuôi đỏ phù sa trầm tích ngã ba sông

Bạch Hạc

Tôi yêu tim sóng chung dòng.

(Việt Trì ơi)

Nghĩ về đất nước là trào dâng niềm yêu thương. Trong một trạng huống khác, trước cổng thành, những chứng tích lịch sử, những mùa hoa luôn để lại bóng dáng một kiều nữ. Nghĩ về biển là nghĩ về Tổ quốc, nơi đầu sóng ngọn gió, nơi khởi sinh những sức mạnh vật chất và tinh thần, ông không thể không trào dâng cảm xúc: “Nghẹn ngào lòng con, khi mỗi ngày lại mới/ Biển gọi bờ rời rợi nhớ mong”.

Từ làng, phóng tầm mắt ra phía biển, biển Nghi Sơn là hợp âm kể về bao thân phận, từ những em bé nghèo “thò lò mũi dây áo mẹ”, những ngư dân trong “lõm chiều/ buồm muộn cá tìm trăng”. Nhưng ở vùng đất từng nghèo ấy nay là “lò cao xi măng/ nhoài bóng mình ra biển”, sẽ là hứa hẹn của những “Nghi Sơn vồng ngực biển!/ đỉnh nối chân trời/ đỉnh nối nhau...”. Đó cũng là “Những mầm đất/ chưa nguôi rập rình giông bão”.

Ngẫm lại, làng nước cho Vũ Quang Trạch khá nhiều: ngoài sự lớn lên thể chất là cả sự trưởng thành của một cán bộ quản lý kinh tế tại Nghi Sơn, sự bình yên khi ông trở về nghỉ chế độ và những áng văn thơ được ông viết như rút ruột từ làng. Như một người con chạy trốn khỏi quê hương rồi quay về “rút ruột” trả nợ, Vũ Quang Trạch - nhà thơ của làng, con người cần mẫn chịu thương, đến tuổi xế chiều lại suốt ngày đắm đuối đánh vật với chữ nghĩa, mạy mọ, xới tung từng điểm đến, ghi chép, nghiền ngẫm, trăn trở. Trong một tập thơ mỏng nhưng chứa nhiều tình cảm của người yêu quê hương, đất nước. Ông đã nói hộ những người từ làng rằng, làng như người mẹ - bàn tay xù xì thô kệch đã hiến kiệt từng giọt sữa thể chất và tinh thần cho những đứa con, Tổ quốc Việt Nam như người mẹ lòng rộng rãi bao dung chịu bao đau đớn để ươm mầm hạnh phúc.

Hạnh Lê (CTV)



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]