(vhds.baothanhhoa.vn) - Trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào Thái, Mường, cây bông có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó không chỉ là sản phẩm được làm nên từ những đôi bàn tay khéo léo, trí tưởng tượng phong phú của các thế hệ người dân bản mường. Hơn hết, cây bông được xem là biểu tượng, linh hồn của lễ hội truyền thống, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của đồng bào các dân tộc Thái, Mường.

Nét đẹp cây bông trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào Thái, Mường xứ Thanh

Trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào Thái, Mường, cây bông có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó không chỉ là sản phẩm được làm nên từ những đôi bàn tay khéo léo, trí tưởng tượng phong phú của các thế hệ người dân bản mường. Hơn hết, cây bông được xem là biểu tượng, linh hồn của lễ hội truyền thống, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của đồng bào các dân tộc Thái, Mường.

Nét đẹp cây bông trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào Thái, Mường xứ ThanhNgười dân làng Rộc Răm, xã Xuân Phúc (Như Thanh) hát múa ăn mừng dưới cây bông trong Lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy.

Lễ tục Kin Chiêng Boọc Mạy là sinh hoạt văn hóa dân gian được cộng đồng người Thái ở làng Rộc Răm, xã Xuân Phúc (Như Thanh) nói riêng, đồng bào Thái ở miền núi tỉnh Thanh Hóa nói chung sáng tạo từ lâu đời. Được tổ chức vào dịp đầu xuân năm mới, lễ tục này nhằm tưởng nhớ công đức của Tướng quân Trần Công Bát, trả ơn thần linh đã che chở, phù hộ trong suốt một năm, đồng thời gửi gắm mong cầu, ước nguyện về những điều tốt lành sẽ đến, cầu sức khỏe, bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Lễ tục Kin Chiêng Boọc Mạy diễn ra gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Sau khi người chủ trì nhập thân thành ông Chương - nhân vật nhà trời giáng hạ xuống bản mường để bảo vệ, che chở cho dân bản chủ trì xong phần tế lễ thần linh thì cũng là lúc đông đảo người dân vui hội tổ chức hát múa ăn mừng dưới cây bông với một số trò chơi, trò diễn dân gian mô phỏng hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người xưa như: đánh thức chương, soi hoa, hái hoa, phi ngựa, dệt vải, ru con, dặn trâu, chương về trời...

Vì lẽ đó, cây bông được xem như linh hồn, biểu tượng của lễ tục Kin Chiêng Boọc Mạy. Việc làm cây bông cũng chiếm nhiều thời gian, công sức nhất trong quá trình chuẩn bị cho lễ hội. Theo chu kỳ 3 năm một lần, lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy được tổ chức quy mô lớn, lúc đó làng sẽ tiến hành làm cây bông. Những người được bản mường chọn lựa giao phó trọng trách này phải có kinh nghiệm, khéo léo, tâm huyết, trách nhiệm. Cây bông gồm hai phần chính: Cột trụ và các cành hoa. Cột trụ được làm bằng tre, luồng..., dài khoảng 1,7 - 1,8m có đục lỗ; cành hoa và các vật trang trí trên cây bông làm từ thân cây bùng bục, dâu, sắn, sau quá trình tỉ mỉ gọt, đẽo thành nhiều hình thù khác nhau sẽ được mang đi hấp, phơi khô rồi nhuộm màu sắc rực rỡ. Tùy thuộc vào thế hệ nhà Mo của bản mường mà cây bông được làm 3, 5, 7, 9 hay 12 tầng. Mỗi cây bông có từ 100 đến 200 cành, mỗi cành có từ 50 đến 80 bông hoa...

Hình thức, nghi lễ, trò chơi, trò diễn trong lễ tục Kin Chiêng Boọc Mạy đã cho thấy tính cố kết cộng đồng trong bản mường rất chặt chẽ, thể hiện khát vọng, ước mong, nét đẹp trong tín ngưỡng, văn hóa truyền thống, phản ánh nhân sinh quan, vũ trụ quan, ước mong thiên - địa - nhân hòa hợp. Người nhập vai thần, đóng vai Mường Trời đã mượn cái huyền ảo, tính thiêng, “cái uy” của thần để nói cái thực ở đời, răn dạy con người phải biết hướng đến điều thiện, không được làm điều ác, sống yêu thương nhau và không bao giờ được phép quên đi cội nguồn, tiên tổ, gốc gác của dân tộc mình. Hình ảnh cây bông đâm cành, tỏa nhánh, “nở hoa” với muôn sắc màu được đặt trang trọng trong không gian lễ hội, người người náo nức hát múa xung quanh cùng ý nghĩa, thông điệp nhân văn sâu sắc được truyền tải là yếu tố quan trọng đưa lễ tục Kin Chiêng Boọc Mạy “ghi danh” vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Cũng giống như đồng bào Thái, cây bông từ lâu đã trở thành linh hồn, biểu tượng trong lễ hội truyền thống, tín ngưỡng của đồng bào Mường ở xứ Thanh. Vào ngày rằm tháng Giêng, rằm tháng Ba và rằm tháng Bảy hay lễ mừng cơm mới, đồng bào Mường vui hội Pồn pôông để cầu chúc cho mối tình thủy chung, son sắt, cảm động lòng người của nàng Ờm - Bồng Hương, cầu chúc cho bản Mường được no ấm, thóc đầy bồ, ngô đầy sàn, vạn vật sinh sôi, nảy nở, con người mạnh khỏe, bình an. Lễ hội Pồn pôông cũng là dịp để các nam thanh, nữ tú trong vùng gặp gỡ, giao lưu, từ đó mà nhiều người nên duyên chồng vợ, sống đời bên nhau.

Trong tiếng Mường, “Pồn pôông” có nghĩa là nhảy múa bên hoa. Cùng với Ậu Máy (hay còn gọi là bà Máy), cây bông tựa như “sứ giả”, cầu nối, phương tiện giao tiếp đặc biệt giữa các đấng thần linh và con trần. Người trần dựng cây bông mời thần linh về chứng giám cho lòng thành; thần linh theo “chỉ dẫn” của cây bông mà cùng về vui hội với bản mường.

Nghệ nhân Nhân dân Phạm Thị Tắng (80 tuổi, thôn Lỏ, xã Cao Ngọc, huyện Ngọc Lặc) là người dành nhiều tâm huyết, nỗ lực để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Mường. Sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống làm Mo Mường, ngay từ khi còn trẻ, bà Tắng đã được các thế hệ đi trước truyền dạy những lời ca, điệu múa truyền thống, bài cúng thần linh, cách thức làm cây bông, tổ chức lễ hội pồn pôông. Đến nay, khi đã ở độ tuổi “bát thập đắc hi hỉ”, bà Tắng vẫn giữ trọn tình yêu, nhiệt huyết truyền dạy cho các thế hệ cháu con của khắp các bản mường biết cách ngân nga điệu hát Xường giao duyên, biết linh hoạt, uyển chuyển đôi bàn tay, bàn chân theo tiếng nhạc mà thành điệu múa, biết làm những bông hoa đẹp trang trí trên cây bông trong lễ hội pồn pôông. Bà Tắng cho biết: “Nếu đồng bào Thái chủ yếu làm hoa trang trí cho cây bông bằng ruột cây sắn, cây dâu thì đồng bào Mường lại luồn sâu vào rừng tìm cây chạng vạng để gọt đẽo nên các hình cái cuốc, cái cày, con chim, con cá... Nghĩa là xoay quanh cuộc sống của bà con có cái gì thì làm cho cây bông có cái đó”.

Cả cây bông của đồng bào Thái và đồng bào Mường đều có quy định về tầng, bậc rất rõ ràng. Bà Tắng chia sẻ thêm: “Tùy thuộc vào năng lực, số năm “ra nghề” của ông Ậu Máy mà làm tầng, bậc cho cây bông. Khi Ậu Máy lần đầu tiên đứng ra dựng cây bông thì làm 3 tầng, sau 3 năm thì tiếp tục dựng cây bông 5 tầng. Và cứ thế, lặp lại chu kỳ 3 năm, cây bông dựng lên 7 tầng, 9 tầng và 12 tầng”. Từ những tầng, bậc ấy cho thấy tính thiêng cùng sự tiếp nối và trao truyền giá trị văn hóa Mường qua các thế hệ. “Trước đây, ít người trong bản mường biết làm cây bông, biết hát múa pồn pôông lắm. Bây giờ, lớp trẻ nhiều người sau khi được truyền dạy đã múa hát thạo lắm rồi, cũng đã biết tham gia làm cây bông. Nhiều học trò của bà cũng đã đứng ra dựng cây bông 3 tầng, 5 tầng rồi đấy. Các bạn trẻ bây giờ giỏi mà, học nhanh mà. Bà chỉ mong càng nhiều người làm giỏi hơn bà để đến khi bà nhắm mắt xuôi tay rồi nét đẹp văn hóa Mường vẫn còn mãi”, bà Tắng vui vẻ trò chuyện.

Về cách làm, cách trang trí cây bông của đồng bào Thái và đồng bào Mường ở xứ Thanh vừa có nét tương đồng vừa có sự khác biệt. Nhưng tựu chung ý nghĩa của nó trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng của người Thái, Mường đều giống nhau. Đó vẫn là “cầu nối” giữa thế giới thực và thế giới thần linh, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan, những giá trị sống tốt đẹp được vun đắp, trao truyền qua bao thế hệ...

Bài và ảnh: Đăng Khoa



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]