(vhds.baothanhhoa.vn) - Theo cuốn Long Châu Nguyễn Huy tộc phổ (Long châu phổ ký của dòng họ Nguyễn Huy) và sách “Đại Nam liệt truyện” (Quốc sử quán triều Nguyễn) cho biết: Nguyễn Huy Kỷ (sinh năm 1819) tự Hòa Khanh, hiệu Châu Trang, quê ở xã Yên Vực tổng Từ Minh, nay là phố Yên Vực, phường Tào Xuyên, TP Thanh Hóa. Năm Tân Sửu (1841) ông đã đỗ cử nhân trong kỳ thi Ân khoa.

Nguyễn Huy Kỷ: Văn quan mưu lược và nhân hậu

Theo cuốn Long Châu Nguyễn Huy tộc phổ (Long châu phổ ký của dòng họ Nguyễn Huy) và sách “Đại Nam liệt truyện” (Quốc sử quán triều Nguyễn) cho biết: Nguyễn Huy Kỷ (sinh năm 1819) tự Hòa Khanh, hiệu Châu Trang, quê ở xã Yên Vực tổng Từ Minh, nay là phố Yên Vực, phường Tào Xuyên, TP Thanh Hóa. Năm Tân Sửu (1841) ông đã đỗ cử nhân trong kỳ thi Ân khoa.

Nguyễn Huy Kỷ: Văn quan mưu lược và nhân hậu

Hiện cụ Nguyễn Huy Kỷ đang được thờ ở quê nhà tại phố Yên Vực, phường Tào Xuyên, TP Thanh Hóa.

Sau đó ông được bổ làm tri huyện Gia Lâm, rồi tri huyện Phú Xuyên. Năm 1848, ông được chuyển sang làm Nội các thị độc, bổ làm Án sát Hưng Hóa. Năm Tự Đức thứ 14 được cử làm Phó sứ, tuy nhiên lúc đó bên nhà Thanh có loạn nên việc đi sứ tạm dừng, ông được lệnh về kinh nhận công việc mới ở Bộ Lại, giữ chức Trừng thục tư lang trung Thị giảng học sĩ. Năm 1864, chuyển Bố chánh sứ Nam Định, sau lại được phong Tuần phủ Hưng Hóa, thăng làm Binh bộ Hữu Tham tri sung Tham tán đại thần. Đến năm Tự Đức thứ 33 thăng Ninh - Thái Tổng đốc.

Trong khi làm Bố chánh sứ ở tỉnh Nam Định, gặp năm thiên tai mất mùa dân tình đói khổ. Thấy được cảnh đó, ông đã cùng với Tổng đốc Đào Trí và Án sát Lê Tuấn hết lòng mưu tính chẩn tế cứu đói cho dân, sách Đại Nam thực lục viết: “Trước đây quan tỉnh Nam Định Tổng đốc Đào Trí, Bố chính Nguyễn Huy Kỷ, Án sát Lê Tuấn khuyên dân quyên tiền giúp và phát chẩn được 1.400 lạng bạc, 90.500 quan tiền, 2.200 hộc thóc. Lập ra xã thương được 94.100 hộc thóc, 1.800 quan tiền, lại sức dân khai khẩn ruộng được hơn 17.000 mẫu. Việc tâu lên, vua khen ngợi thưởng cho mỗi người một tấm kim bài có thao rũ khắc chữ “đồng tâm cử chức” (đồng lòng làm tròn chức vụ) và được gia thưởng 1 cấp. Sai sử quán soạn văn bia giao cho tỉnh Nam Định dựng lên... Bọn Trí dâng sớ từ chối...”.

Năm Tự Đức thứ 19, tỉnh Hưng Hóa ở các châu Thủy Vĩ, Văn Bàn, Trấn Yên người Mèo ở trên núi không an phận, họ bị kích động và thường tràn xuống núi cướp bóc làm loạn. Lúc đó, Nguyễn Huy Kỷ nhận chức vụ Tuần phủ về lại Hưng Hóa, ông đã đi các nơi xem xét, sau đó dâng tấu về kinh rằng: “Người Mán Mèo là thiểu dân ở xa mãi ngoài biên, không có tài nghệ gì khác. Trước vì đói kém mà đi cướp lấy ăn, sau vì chống lại quan quân nên sợ tội chưa dám ra thú phục. Thần đã từng dò thăm, không phải là bọn tụ họp lớn. Nay nếu tới đánh dẹp, thời quân đến họ đi, quân đi họ lại đến. Nếu lấy nhiều cách dỗ bảo, họ tất quay về hàng phục, thảng hoặc có 1 - 2 tên mờ tối, ngang ngạnh, thời vỗ về những bọn đã quy phục, cho dứt mọi nghi ngờ, mà bỏ được cái mầm mống ác đi”.

Với sự thu phục nhân tâm ấy, “bọn đầu mục Mán đã tới trước quan xin thú tội và phục tùng. Việc đến tai vua. Vua cho là đánh được Mán ấy không khó, mà vỗ yên được mới là khó; quan quân dẫu không có sự trạng đánh dẹp, mà chiêu dụ vỗ về được việc, có việc không đánh mà khuất được người như thế, đều gia thưởng cho Nguyễn Huy Kỷ gia thăng một cấp...”.

Năm Tự Đức 21 do để mất đồn Quang Lang ở Lạng Sơn nên Binh bộ Hữu Tham tri Tham tán Huy Kỷ bị giáng cấp. Nhưng đến tháng 10 vua Tự Đức cho rằng trong số các quan thì có Huy Kỷ là hết lòng bày mưu đạt kế để giúp các võ quan tướng soái những chỗ thiếu sót.

Khi được giao nhiệm vụ dẹp giặc cờ vàng Hoàng Sùng Anh chiếm giữ Trấn Hà ở tỉnh Hưng Hóa và Thập Châu, Nguyễn Huy Kỷ đã khiến cho quân giặc phải ra đầu hàng: “giặc Hoàng Anh chiếm giữ Trấn Hà ở tỉnh Hưng Hóa, cậy chỗ bền vững đã lâu năm, đến nay Tuần phủ Nguyễn Huy Kỷ đem toàn bộ quân họ Lưu đánh lấy được”.

Không những chỉ hết lòng lo toan việc nước, Nguyễn Huy Kỷ còn được tiếng là nhân hậu, ông rất đau buồn khi thấy cảnh quân sĩ đổ máu trên chiến trường, nên khi dẹp xong phỉ loạn ông đã dâng tấu về kinh với nội dung: “Binh lính nhiều lần đi đánh giặc bị tử trận đã theo lệ cấp tuất rồi. Những tử sĩ không có vợ con xin cho được làm chay và tế một tuần để thỏa vong hồn” được chuẩn y. Qua hành động này của Nguyễn Huy Kỷ, người ta thấy rằng không chỉ là vị quan hết lòng vì nước, ông còn là một người hiểu đạo lý và biết lo lắng cho dân.

Khi làm Tổng đốc Ninh - Thái, đồn Điềm Hy ở Lạng Sơn bị vây hãm, đường sứ lại không thông, vua dụ rằng: “Tình hình ở Lạng Sơn cần phải dẹp yên, là nơi mà sứ bộ đi qua phải tính bàn trước. Tổng đốc Bắc Ninh là Huy Kỷ trước đã từng ở Lạng Sơn tinh thông tình thế nên phái quan quân đến ngay để đường sứ được yên”.

Khi tuổi già sức yếu ông xin cáo quan về quê dưỡng bệnh. Tại quê nhà, ông đã cho tu bổ văn chỉ, khuyến khích sự học. Năm 1884 ông mất, hiện nay bài vị và chân dung ông được Nhân dân phối thờ tại ngôi đền ngã ba sông Tuần, ngôi đền mà cách đây hơn 1.000 năm vua Lý Thái tổ một lần đi thuyền qua bị mắc cạn phải cầu đến đức thủy thần bản xứ linh thiêng phù trì cho thuyền vượt qua sông. Khi được toại mệnh, Lý Thái tổ đã cho dân làng xây dựng ngôi đền tại ngã ba sông thờ đức thủy thần làm Thành hoàng làng.

Dân trong vùng gọi ông Nguyễn Huy Kỷ là quan Thượng Bắc. Các con của ông cũng là những người có khí tiết. Con trai đầu là Nguyễn Huy Khuê thi đỗ Giải nguyên nhưng không ra làm quan. Con trai thứ là Huy Giản, đỗ Tú tài rồi tham gia phong trào văn thân chống Pháp ở căn cứ Ba Đình, sau bị giặc Pháp giết cùng nhiều lãnh tụ Cần Vương khác. Cháu nội của ông là Nguyễn Như Phan, được phong Hàn lâm học sĩ. Cháu ngoại là Nguyễn Đình Ngân, đỗ cử nhân làm Tham tri Bộ Học, sau là Phó Chủ tịch Liên Việt khu IV, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Thanh Hóa.

Nguyễn Huy Kỷ là một văn quan nhưng ông lại nhiều lần lập công như một võ quan trong việc bình ổn an ninh ở quan ải. Ông có một câu nói: “Chiến bất dụng lực nhi dụng mưu” (đánh không cần dùng nhiều sức lực mà dùng mưu lược). Đặc biệt ông còn làm rất nhiều những bài ca huấn để răn dạy con cháu, với lời lẽ mộc mạc dễ hiểu và thấm nhuần đạo lý. Hiện nay, bài vị của ông được con cháu phụng thờ trong nhà thờ tại quê nhà cùng với 14 đạo sắc phong do các triều vua ban tặng. Cũng chính vì làm quan được nhiều công trạng nên gia đình ông, cha mẹ, đều được tiếng thơm.

Tập thơ chữ Hán mà ông để lại hiện còn được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có tựa đề là Thi thảo, gồm 58 trang, bằng chữ viết tay hơi thảo, bên ngoài có tựa đề Thanh Hóa Hoằng Yên Châu Trang cư sĩ Tiết Trai Nguyễn Huy Kỷ Hòa Khanh tư thảo.

Tập thơ bao gồm 116 bài thơ, đa phần là những cảm tác của tác giả trong quá trình làm quan, những tình cảm với bằng hữu chốn quan trường, hay những bài ca về nhân tình thế thái, về cảnh đẹp của non sông đất nước... Tất cả đã làm nên một Thi thảo với đầy đủ những cung bậc, sắc thái của của cuộc đời ông.

Bài và ảnh: Nguyễn Huy Miên (CTV)

Bài viết có sử dụng tư liệu trong “Đại Nam liệt truyện”, “Đại Nam Thực lục” và “Long Châu Nguyễn Huy tộc phổ” bản chữ Hán.



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]