Tre làng xứ Thanh - Dáng đứng kiên cường
Có lẽ chẳng mấy ai về Thanh Hóa mà không bắt gặp bóng dáng những lũy tre. Tre đứng sừng sững ở đầu làng, nơi bến nước, bờ ao. Tre ôm ấp mái đình, che chở con đường đất đỏ, rì rào gió hát. Tre như một phần máu thịt của xứ Thanh, mộc mạc, giản dị nhưng bền bỉ đến lạ lùng.
Tôi còn nhớ như in những chiều quê tuổi thơ, theo chân bà ra bờ sông Mã. Dòng sông mùa hè đầy nước, sóng lăn tăn vỗ vào chân đê . Ven sông, những bụi tre già rì rào, thân xám bạc, lá rung lách cách. Bà tôi bảo: “Tre già măng mọc, lũy tre giữ đất, giữ làng, giữ cả hồn quê”.
Ngày ấy tôi chẳng hiểu vì sao một bụi tre lại “giữ được làng”. Mãi sau này, khi lớn lên, đi qua nhiều vùng đất khác, tôi mới nhận ra, ở đâu còn lũy tre, ở đó còn dấu vết của nếp làng, của tình người quê xứ. Tre không chỉ che gió che mưa, tre còn là chỗ tựa bình yên, là bóng râm cho bầy trẻ mục đồng nằm ngủ trưa, là cành lá quạt mát cho những buổi gặt mùa oi ả.
Có những trưa hè oi nồng, tôi và đám bạn trèo lên cành tre đong đưa, chặt lá tre gấp châu chấu, làm diều . Tiếng cười giòn tan bay xa khắp bờ đê, hòa vào tiếng gió lùa qua kẽ lá tre xào xạc. Đôi khi, chỉ một tiếng gió lao xao qua lũy tre, cũng đủ để tôi nhớ về quê nhà khi đã đi xa.
Tre làng Thanh Hóa không chỉ đứng đó như một phần cảnh quan. Tre gắn chặt vào cuộc mưu sinh của bao thế hệ. Tre cho đũa tre, cho nón quai thao, cho rổ rá, cho cán cuốc, cán chổi. Ở quê tôi, khi nhà có việc lớn - dựng nhà, dựng cửa - người ta cũng tìm đến tre . Tre làm giàn giáo, tre bện dây buộc chắc kèo cột. Tre mộc mạc nhưng bền chắc, như tấm lưng còng của những người nông dân cần mẫn.
Tôi đã từng hỏi cha tôi, vì sao quê mình không thiếu cây xanh, nhưng tre thì cứ nhất định phải giữ lại. Cha tôi cười, mắt nhìn ra ngoài bờ rào tre xanh: “Tre dễ trồng, chịu được khô cằn, bão lũ có quật đổ thì măng lại mọc lên. Tre như người xứ Thanh mình vậy, dãi dầu mưa nắng, gian khó trăm bề vẫn đứng thẳng”.
Ngẫm lại, mới thấy cha nói chẳng sai. Xứ Thanh đất cát khô cằn, đất đồi núi lẫn đồng bằng. Người quê tôi chẳng ngại nắng cháy, mưa dầm, chẳng ngại bão giông. Cứ hết mùa cấy lại đến mùa gặt, hết vụ ngô đến mùa cói, cứ thế mà kiên nhẫn, mà vững vàng. Lũy tre cũng kiên cường như vậy - chịu gió bão quật, lá rách tơi tả, thân gãy cụt ngọn , rồi mùa sau măng lại đội đất mà vươn lên, xanh rờn.
Có những chiều cuối năm, tôi về quê, bắt gặp mẹ đang ngồi chẻ nan tre. Mẹ chẻ tre để đan phên phơi thóc , đan rổ đựng rau. Tiếng dao bổ vào thân tre giòn tan, mùi tre tươi ngai ngái. Mẹ bảo: “ Tre này bà trồng từ hồi mẹ còn nhỏ. Giờ cắt đi, măng mới mọc. Chừng nào còn tre , còn làng mình...”
Câu nói của mẹ làm tôi bâng khuâng. Tre không chỉ là vật liệu, tre còn là chứng nhân lặng lẽ. Tre biết bao chuyện làng - chuyện gánh nước, chuyện đám cưới hỏi, chuyện hội làng ngày tết. Tre lắng nghe tiếng ru con, tiếng gọi nhau í ới mỗi mùa lũ đến, tiếng hò reo ngày cấy cày. Mỗi lũy tre già như một trang sách không chữ, mà ai muốn hiểu phải lắng lòng.
Ngày nay, đường làng đã bê tông hóa, cột điện mọc lên, mái nhà lợp tôn lợp ngói đỏ. Lũy tre có nơi thưa vắng dần. Có đoạn tre bị chặt đi để mở đường, dựng quán, cất nhà. Tôi không khỏi bâng khuâng mỗi lần nhìn lũy tre xưa chỉ còn vài gốc già rụi lá. Nhưng rồi cũng chính ở những bờ mương, góc vườn sau, tre vẫn mọc, xanh bời bời. Cứ thế, tre chẳng đòi hỏi gì, cứ lặng lẽ mà che chở cho làng .
Có lần tôi đi công tác xa , lạc bước giữa phố thị ồn ào. Bất chợt, tôi thấy một bụi tre già vươn mình nơi góc sân đình cổ. Giữa lòng thành phố, bụi tre đứng sừng sững, gợi lên một góc quê nhà. Tôi đứng nhìn, như gặp lại một người thân. Lúc ấy, tôi mới hiểu vì sao người xứ Thanh xa quê luôn đau đáu về lũy tre làng.
Người già quê tôi bảo, tre cũng dạy con người ta cách sống: mềm dẻo nhưng kiên cường, đổ nhưng không gãy, biết cúi mình lúc giông tố để rồi ngẩng cao đầu khi nắng lại lên. Bao đời nay , người Thanh Hóa sống với tinh thần ấy - cứng cỏi mà mềm mại, chịu thương chịu khó mà bền gan bền chí.
Tre còn gắn liền với hình ảnh những người lính xứ Thanh đi đánh giặc giữ nước. Trong kháng chiến, tre làm chông , làm gậy, làm vũ khí. Tre được đan thành hầm hào, thành công sự. Tre gắn với hình ảnh áo vải, dép lốp, tay cuốc tay súng. Tre tiếp sức cho con người vững niềm tin: giặc đến thì đánh, hoà bình thì dựng làng, dựng nước.
Ngày nay, người trẻ xứ Thanh rời làng ra phố, ra các miền đất khác để học tập, lập nghiệp. Nhưng trong ký ức của họ, dáng tre vẫn còn xanh mãi. Mỗi khi mỏi mệt giữa thành thị bụi bặm, người ta lại nhớ lũy tre làng - cái dáng đứng kiên cường như một lời nhắc: hãy sống ngay thẳng, hãy biết vươn lên, hãy mềm mại nhưng đừng quên cứng cỏi.
Rồi sẽ có một ngày, tôi lại về quê, đi dưới những hàng tre rì rào gió hát. Tôi sẽ ngồi bên bờ tre, nghe tiếng côn trùng đêm, nghe tiếng gió thổi qua thân tre già. Tôi sẽ kể cho con tôi nghe chuyện tre , chuyện làng, chuyện cha ông bao đời vất vả giữ đất giữ làng. Để con biết, quê mình có tre và tre đã dạy người quê mình cách đứng vững giữa trăm ngàn sóng gió.
Tre làng Thanh Hóa - dáng đứng kiên cường. Dáng đứng ấy không chỉ là hình hài lũy tre rì rào ven sông Mã, mà còn là tinh thần bền bỉ của người quê tôi - kiên nhẫn, nhẫn nại, chịu thương chịu khó. Dù ở đâu, dẫu đi xa, tôi vẫn tin, chỉ cần còn một bụi tre xanh, là còn một quê hương để về.
Đức Anh (CTV)
{name} - {time}
-
2025-07-23 21:19:00
Người già có chọn thảnh thơi?
-
2025-07-23 19:00:00
Dự báo thời tiết đêm 23 ngày 24/7/2025
-
2025-07-23 15:00:00
Bản tin Tài chính – Thị trường 23/7/2025
Chủ tịch nước: Chính sách ưu đãi người có công là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài
Công nghệ giúp nâng tầm sản phẩm rèn Tất Tác
Độc đáo nhà gỗ của người Mông ở Ché Lầu
Đền thờ vọng 13.000 anh hùng liệt sĩ trên dãy Trường Sơn
Dự báo thời tiết hôm nay 23/7/2025
Dự báo thời tiết đêm 22 ngày 23/7/2025
Quê nhà ngày mưa bão