Từ Nguyên Tĩnh viết thay lời tri ân
Nghệ sĩ nhiếp ảnh (NSNA) Phạm Công Thắng gọi cho tôi, mời tôi đến “Ký ức Nhiếp ảnh” nhân có Từ Nguyên Tĩnh đến thăm “tệ xá”. Anh không biết rằng, tôi với Từ Nguyên Tĩnh biết nhau hơn mười năm.
Hai tác phẩm mới nhất của Từ Nguyên Tĩnh.
Với ông, tôi là hạng “cháu chắt” mọi nhẽ. Từ Nguyên Tĩnh sinh năm Đinh Hợi, đến với cuộc đời trước tôi cả giáp. Về văn chương, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1994, từ thuở tôi chưa nghĩ gì đến chữ nghĩa. Quan trọng hơn, Từ Nguyên Tĩnh là văn nhân “lực lưỡng” trên văn đàn, thành danh và nổi danh.
So với văn nhân cùng thế hệ, Từ Nguyên Tĩnh cầm bút khá muộn. Theo ông, độc giả biết đến, khởi đầu, khoảng 1984-1987 với ký sự 2 tập mang tên Hàm Rồng (viết chung với Lê Xuân Giang). Sau đó “mạch chữ” trong Từ Nguyên Tĩnh “sôi lên” như dòng sông Mã; liên tục cho ra đời nhiều tập truyện ngắn, tiểu thuyết, tập thơ, trường ca và tuyển tập Thơ Từ Nguyên Tĩnh (2014). Tính ra, ông đã có 27 tác phẩm, đủ thể loại. Hơn 40 năm cầm bút, đó là một “gia tài” - thành quả của sự bền bỉ, cần mẫn, đam mê, lao động nghiêm túc.
Từ Nguyên Tĩnh đã đoạt được nhiều giải thưởng văn học danh giá của tỉnh Thanh Hóa cho đến giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Năm 2022, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật với tác phẩm Mối tình chàng Lung Mù.
Văn xuôi Từ Nguyên Tĩnh là văn xuôi của thân phận. Truyện ngắn Người tình của cha (năm 1991) của ông được chuyển thể thành phim và phát sóng trên Đài Truyền hình Việt Nam vào năm 1994. Truyện ngắn này cũng đã được tuyển chọn vào chương trình tham khảo lớp 9, bộ môn văn học địa phương tỉnh Thanh Hóa từ năm học 2007-2008. Truyện ngắn Hạnh phúc trần gian cũng được chuyển thể phim và được Đài Truyền hình Đà Nẵng công chiếu năm 1995.
Gặp nhau tại Ký ức Nhiếp ảnh, Từ Nguyên Tĩnh tặng tôi Chuyện tình bỏ quên (tập truyện ngắn) và Bản thảo 3 (thuộc series mang tên Bản thảo, khởi in từ năm 2007). Giật mình vì nhà văn, dù cao niên vẫn miệt mài sáng tạo văn chương. Hỏi thì ông cười: “Nợ cuộc đời, nợ nhân thế chưa trả hết”.
Từ Nguyên Tĩnh làm tôi nhớ đến tiểu thuyết Cõi người từng nhận được tặng thưởng cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam (2004-2006).
***
Từ 18 tuổi đến 28 tuổi, giai đoạn đẹp nhất của tuổi thanh xuân, Từ Nguyên Tĩnh gắn bó với trận địa cầu Hàm Rồng và tuyến lửa xứ Thanh. Nhìn ông trầm tư trong không gian “Ký ức Nhiếp ảnh” của NSNA Phạm Công Thắng, tôi nhận ra ông đang hoài niệm, ký ức sống dậy. Ông dừng lại khá lâu bên chiếc máy ảnh Rolleiflex của cố NSNA Nguyễn San và máy ảnh Zenit của cố nhà báo Trần Ngọc Lân được gia đình hiến tặng.
Kỷ vật này được hai cố nhà báo, NSNA sử dụng khi tác nghiệp trên đồi C4 Hàm Rồng những năm Thanh Hóa và các tỉnh phía Bắc đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.
Năm 1965, khi đủ 18 tuổi, Từ Nguyên Tĩnh nhập ngũ và có 10 năm trong quân ngũ. Năm 1975, ông xuất ngũ, sau đó thi đỗ vào Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, ông về quê công tác, rồi trở thành Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Thanh Hóa, Tổng Biên tập Tạp chí Xứ Thanh.
Có lẽ vì những năm tháng “máu và hoa” ở Hàm Rồng nói riêng, Thanh Hóa nói chung, Từ Nguyên Tĩnh là một cây bút “cường lực” về đề tài hậu chiến: Mảnh vụn chiến tranh, Sống được là may (tiểu thuyết); Hàm Rồng ngày ấy (Ký, 2 tập), Ngày bình thường của chiến tranh (truyện ngắn); Hàm Rồng (Trường ca)...
“Nếu bạn đến Hàm Rồng/ Bạn hãy lên đồi “Xê Bốn”/ Bạn sẽ thấy tấm bia bên tay phải/ Ghi tên những người đã hy sinh”; “Tôi có lỗi/ Vì chưa kể cho ai viết bạn mình/ Cuộc đời họ lành như đất/ Mỗi lần định cầm bút/ Tôi không biết viết được điều gì” (Bạn đến Hàm Rồng).
Đất nước thống nhất đã 50 năm, 2 cuộc chiến ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc cũng đã kết thúc từ năm 1989, đất nước thực sự có hòa bình từ đó. Thế nhưng chiến tranh vẫn luôn ám ảnh, đề tài hậu chiến vẫn nôn nao nhiều ngòi bút.
Trên đất Thanh Hóa, Chiến thắng Hàm Rồng cũng qua 60 năm (4/4/1965 – 4/4/2025) nhưng bản hùng ca vang mãi. “Những ai qua đây/ Để về chiến trường xa/ Những đoàn quân theo bàn tay của Bác/ Thấy tượng cũng theo mình ra đi/ Chỉ phương trời có giặc” (Tượng Nam Ngạn - Hàm Rồng).
Từng có nhiều tác phẩm văn xuôi, trường ca về Hàm Rồng, nhưng Từ Nguyên Tĩnh còn viết mãi về “địa chỉ đỏ” này. Ông viết với tất cả bi hùng của dòng sông Mã và Hàm Rồng lịch sử, và cả với day dứt khôn nguôi của “người trong cuộc”.
Chân dung nhà thơ Từ Nguyên Tĩnh.
“Nếu tôi ngồi xuống lúc này/ Trên trận địa Hàm Rồng/ Tôi không thể đứng lên được nữa/ Đồng đội ôm lấy tôi/ Tôi và đồng đội.../ Thành những linh hồn” (Nếu tôi ngồi xuống). Bài thơ này Từ Nguyên Tĩnh viết trong một lần trở lại thăm mảnh đất một thời lửa đạn. Hay như “Những chiều hoàng hôn về bên sườn đồi/ Những sợi nắng gặp được tâm tình/ Câu thơ anh viết găm vào núi/ Tên nhà thơ khắc trên trời xanh” (Tên một nhà thơ). Rất nhiều đồng đội, đồng chí của Từ Nguyên Tĩnh đã nằm lại, linh hồn hóa thân thành sông núi, không riêng một pháo thủ làm thơ, bên chiến hào.
***
Từ Nguyên Tĩnh (tên thật là Lê Văn Tĩnh) sinh tại làng Bàn Thạch, nay thuộc xã Sao Vàng, tỉnh Thanh Hóa.
Từ Nguyên Tĩnh cho biết, Bàn Thạch là vùng đất thiêng, “địa linh nhân kiệt”. Theo truyền khẩu, ở làng cổ Bàn Thạch có đến 21 thế đất hình con dơi. Con dơi khi thêm vào bộ tứ linh “long, ly, quy, phượng” thành ngũ phúc. Vì vậy, đất này được lựa chọn làm nơi an táng 3 vị vua thời Lê Trung hưng là Lê Dụ Tông, Lê Hiển Tông, Lê Mẫn Đế.
Bàn Thạch ngàn năm trước có tên là trang La Hạ, có hồ Bàn Thạch (xưa gọi là Long Hồ), rộng hơn 144.000m2. Có thời để chống kẻ trộm, bảo vệ bia đá, thần phả của đền Cao Sơn, các cụ dùng Long Hồ để cất giấu. Nghe nói, những năm đầu thập niên 60 thế kỷ XX, khi người dân trong làng, xã kéo tôm, bắt cá vẫn thường gặp, nhưng nhiều bia đá vẫn còn nằm lại dưới nhiều lớp bùn sâu.
“Thuyền ai tung lưới làm gương vỡ/ Cá quẫy lung linh rạn mặt người/ Chuông chùa một tiếng làm xao động/ Thơ nằm dưới hồ thật lẻ loi” (Câu thơ nằm dưới hồ Bàn Thạch). Từ Nguyên Tĩnh đau đáu với văn hóa, giữ gìn bản sắc quê hương.
Trong Bản thảo 3, dù nhiều đề tài nhưng tâm cảm Từ Nguyên Tĩnh vẫn dành cho quê hương sự trân trọng, sâu lắng. Có thể thấy qua các bài thơ “Lời gọi từ quê nhà”, “Viết thêm về con trâu”, “Chiếc nồi đất của mẹ”, “Thóc giống”...
Người lớn tuổi thường nhớ về ký ức, hoài niệm. Từ Nguyên Tĩnh không cá biệt. Cho đến bây giờ ông vẫn nhớ chiếc nồi đất mẹ mua kho cà. “Tôi đi chiến trường xa về không gặp mẹ/ Hết chiến tranh về mẹ chẳng còn/ Chiếc nồi đất vỡ treo trên cọc rào như chiếc mũ/ Đội nắng mưa suốt cả thời gian” (Chiếc nồi đất của mẹ).
Tuổi thơ với làng quê, phụ thân, bạn học và thầy cô, đồng đội những năm tháng chiến tranh... tiếp tục là nguồn cảm hứng trong thơ văn Từ Nguyên Tĩnh.
Ngồi ngắm nhìn vách thời gian trên khuôn mặt ông, đọc văn, thơ ông, tôi hiểu thông điệp Từ Nguyên Tĩnh, nâng niu hôm qua mới thêm động lực và sức mạnh để mỗi người sống tốt hơn, ít nhất ở hiện tại.
Bài và ảnh: Ngô Đức Hành
{name} - {time}
-
2025-09-26 10:08:00
Nguyễn Bá Thiệu - người con ưu tú của quê hương Thọ Sơn
-
2025-09-19 14:16:00
Khởi nghiệp từ xe đồ uống đường phố
-
2025-09-19 10:05:00
Nguyễn Phong Dy: Từ chí sĩ đến Đình nguyên tiến sĩ