“Bài toán” giảm nghèo vùng đồng bào Mông
Người Mông ở Thanh Hóa có dân số đông thứ 3 trong các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh (sau dân tộc Mường và Thái), với khoảng trên 20.000 người, sống tập trung ở 44 bản tại các xã biên giới. Trong nhiều năm qua, nhờ được thụ hưởng các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững của Trung ương, của tỉnh, đời sống đồng bào Mông Thanh Hóa đã thực sự đổi thay. Tuy nhiên, do chủ yếu sinh sống ở các địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, đất sản xuất ít, khí hậu khắc nghiệt và trình độ dân trí không đồng đều, vì vậy công tác giảm nghèo luôn là một “bài toán” khó đối với các địa phương.

Chị Hơ Thị Cho ở bản Ché Lầu, xã Na Mèo chăm sóc diện tích vầu của gia đình.
Trong hành trình phát triển của các địa phương miền núi của tỉnh nói chung, vùng đồng bào Mông nói riêng, công tác giảm nghèo luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được đặt lên hàng đầu. Bởi vậy, việc tìm ra nguyên nhân của cái nghèo và làm thế nào để đồng bào Mông thoát nghèo bền vững luôn là “bài toán” đặt ra với tỉnh và mỗi địa phương.
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân làm cho đời sống đồng bào Mông khó phát triển, đó là cơ sở hạ tầng ở các xã vùng biên còn thiếu và yếu. Khoảng 5 năm trở về trước, nhiều bản Mông vẫn nằm trong tình trạng “3 không”: không đường, không điện, không sóng điện thoại. Mặt khác, đời sống của bà con chủ yếu là tự cung tự cấp, việc sản xuất phụ thuộc nhiều vào thời tiết, các sản phẩm làm ra chưa trở thành hàng hóa vì khó tiêu thụ...
Những năm qua, khi các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững của Trung ương, của tỉnh được triển khai, đặc biệt là nguồn vốn hỗ trợ của Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2030; giai đoạn I từ năm 2021 đến 2025 đã tác động mạnh mẽ đến công tác giảm nghèo bền vững ở các địa phương miền núi trong tỉnh. Trong đó phải kể đến việc hỗ trợ sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào Mông nói riêng thông qua các mô hình sản xuất phù hợp với nhu cầu, trình độ canh tác và thế mạnh của địa phương.
Đến thăm các bản đồng bào Mông hôm nay, điều cảm nhận thấy là hầu hết các bản đều đã có đường bê tông đi lại thuận tiện, bà con đã dần thay đổi phương thức sản xuất, nhờ đó năng suất cây trồng, vật nuôi dần tăng lên. Ngoài ra, với sự giúp đỡ của các ban, ngành, đoàn thể, bà con các bản đã tích cực trồng lúa nước 2 vụ, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào việc thay đổi giống cây trồng có năng suất cao.
Ở bản Pá Hộc, xã Nhi Sơn - nơi sinh sống khá đông đồng bào Mông, ai cũng biết đến anh Thao Văn Tông, bởi anh không chỉ làm kinh tế giỏi, mà còn là người tiên phong trong việc thay đổi tư duy sản xuất, mang lại nguồn thu nhập cao cho gia đình.
Nhiều năm trước gia đình anh thuộc diện hộ nghèo, nguồn thu nhập chủ yếu từ 4 sào nương trồng lúa và ngô. Năm nào được mùa thì đủ ăn, nếu hạn hán mất mùa thì phải chạy vạy lo từng bữa. Không cam chịu cảnh nghèo đói, anh đã bàn với vợ con quyết định vay vốn Ngân hàng CSXH để đầu tư phát triển sản xuất. Nhận thấy địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi để chăn nuôi đại gia súc, anh đã mua 1 cặp bò và 1 con lợn giống về nuôi. Nguồn thức ăn cho bò chủ yếu là cỏ voi và thân cây chuối, rất dễ tìm kiếm và không tốn nhiều tiền để mua. Anh thực hiện đầy đủ việc tiêm vắc-xin để phòng tránh dịch bệnh, nhờ đó đàn bò của gia đình anh phát triển tốt. Hiện gia đình anh đang nuôi 7 con bò. Nhờ chăn nuôi, gia đình anh đã trả hết được số tiền vay ngân hàng và có vốn đầu tư tái sản xuất.
Trong công tác giảm nghèo ở vùng đồng bào Mông, việc đưa các giống cây, con mới có năng suất hiệu quả cao vào sản xuất luôn được các địa phương chú trọng. Đây không chỉ là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho bà con, mà còn là sự thay đổi trong nếp nghĩ, cách thức sản xuất mới.
Cách đây 5 năm, tại 3 bản Mông gồm Ché Lầu (xã Na Mèo) và Mùa Xuân, Xía Nọi (xã Sơn Thủy), từ dự án hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình 30a và nhân rộng mô hình giảm nghèo thuộc Chương trình 135 của Chính phủ, lần đầu tiên cây vầu - một loại cây được xem là “vàng xanh” ở miền núi đã được đưa vào trồng.
Thực hiện mô hình trồng vầu, gia đình chị Hơ Thị Cho ở bản Ché Lầu được bản chia cho 2,7ha đất vườn rừng để sản xuất. Mặc dù là cây trồng mới, nhưng sau thời gian được các cán bộ chuyên môn của xã xuống bản tuyên truyền, hướng dẫn biện pháp kỹ thuật, vợ chồng chị đã có thể làm tốt việc chăm sóc, thâm canh cây vầu. Khoảng 2 năm nữa, diện tích rừng vầu của gia đình chị sẽ cho khai thác, hứa hẹn mang lại nguồn thu nhập cao.
Hiện nay, ở vùng đồng bào dân tộc Mông những mô hình giảm nghèo xuất hiện ngày càng nhiều. Nhìn chung, các mô hình này đã và đang duy trì, phát triển tốt, góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sống cho bà con dân bản. Có thể khẳng định, công tác xóa đói, giảm nghèo vùng đồng bào Mông ở Thanh Hóa đã và đang được quan tâm, hỗ trợ đúng hướng, đúng đối tượng; tỷ lệ hộ nghèo hằng năm liên tục giảm, hộ khá giả ngày một nhiều hơn. Niềm tin vào Đảng, Nhà nước của đồng bào ngày càng được củng cố, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn - xã hội ở khu vực biên giới của Tổ quốc.
Bài và ảnh: Ái Vân
{name} - {time}
- 
                            
                            2025-11-04 08:47:00Hơn 316 tỷ đồng quyên góp ủng hộ đồng bào vùng bão lũ tại Hội chợ Mùa Thu 2025
 - 
                            
                            2025-11-04 08:09:00Sắc xanh no ấm ở vùng bán sơn địa
 - 
                            
                            2025-11-03 20:14:00Tuyến đường sắt Bắc-Nam vẫn bị ách tắc tại Ga Huế
 






