(vhds.baothanhhoa.vn) - “Xuân Giai ở đất vua Hồ/ Trai thanh gái lịch kinh đô rõ ràng”, đối với hầu hết người dân làng Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến cũ, nay là xã Tây Đô, được sinh ra lớn lên ngay khu vực hào thành, lắng nghe âm vang của những câu chuyện lịch sử cùng dòng chảy thời gian chính là niềm tự hào không kể xiết.

Làng cổ Xuân Giai

“Xuân Giai ở đất vua Hồ/ Trai thanh gái lịch kinh đô rõ ràng”, đối với hầu hết người dân làng Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến cũ, nay là xã Tây Đô, được sinh ra lớn lên ngay khu vực hào thành, lắng nghe âm vang của những câu chuyện lịch sử cùng dòng chảy thời gian chính là niềm tự hào không kể xiết.

Làng cổ Xuân Giai

Cây thị của làng Xuân Giai bền bỉ sống cùng thời gian.

Làng hình thành đến nay chừng 640 năm. Đó là vào cuối thế kỷ XIV khi mà những người họ Trần, họ Tiết (gốc vùng Kinh Bắc), họ Triệu (gốc làng Nành Gia Lâm), họ Lê (vùng Nhị Khê) đã đến vùng đất này để sinh cơ lập nghiệp. Cột mốc rõ ràng nhất mà lịch sử ghi lại đó chính là năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên ngôi vua, đổi Quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu Thánh Nguyên, làng quê thuần nông đã trở thành thủ đô - trung tâm chính trị của cả nước. Cũng từ đây mà những cái tên đậm hương vị quê đã đổi thành phố, phường. Có thể kể tới phố Hoa Nhai (chạy từ cổng Nam đến chân núi Đún, còn gọi là đường Cái Hoa), phường Thành, phường Thị, phường Chác, phường Bãi Chợ, phường Hồ Me, phường đường Cắm Cờ, phường Vạn Ninh, phường Lan Giai...

Đến năm 1428, Lê Lợi đại thắng quân Minh, phố Hoa Nhai chuyển thành làng Hoa Nhai. Giai đoạn 1841-1847, vì kiêng chữ Hoa - tên húy mẹ vua Thiệu Trị - nên đổi Hoa Nhai thành Xuân Nhai. Đến đời vua Thành Thái (1889-1907), làng Xuân Nhai đổi thành Xuân Giai.

Theo dòng thời gian cùng những biến động của lịch sử, dân số làng Xuân Giai ngày càng đông đúc hơn. Ngoài dòng họ Tiết, các dòng họ khác như Trần, Triệu, Lê, Trịnh, Phạm, Nguyễn, Đặng, Ngô, Lưu, Tạ, Dương... cũng đã đến đây, thậm chí phát triển thành nhiều chi/phái.

Chuyện họ Tiết gắn với thành hoàng làng Xuân Giai, có tên là Tiết Đinh Quý. Theo chia sẻ của ông Trịnh Văn Tâm, trưởng thôn Xuân Giai: Từ sau năm 1947, hầu hết thần tích, sắc phong của các vị thần thờ ở làng Xuân Giai đã không còn, vì thế cụ thể về lịch sử làng, chẳng ai dám khẳng định. Tuy nhiên, theo các vị cao niên kể lại, nhân vật Tiết Đinh Quý là người Trung Quốc. Còn chuyện vì sao ông dừng chân ở mảnh đất này để lập ấp và gây dựng làng Xuân Giai ngày nay thì không ai biết. Chỉ biết rằng, từ đời này sang đời khác, hằng năm vào ngày mồng 6 tháng 3 làng tổ chức lễ Kỳ phúc đồng thời cũng là ngày kỵ của thành hoàng.

Theo sách “Thanh Hóa Chư thần lục”, làng Xuân Giai còn thờ một số các vị thần như Vũ Hoa công chúa, Chúa tể phụ thắng tôn thần, Thánh sư tổ nghề hát ca công. Bởi thế mà xưa kia ở đây phát triển nghề hát ca công. Con đường từ cửa Nam Thành Nhà Hồ ra Đốn Sơn chính phố Hòe Nhai - đường Hoàng cung triều Hồ đã một thời “vang bóng” tiếng đàn, điệu phách, lời ca của các ca nương vang vọng. Ngoài ra, người làng Xuân Giai nhiều người biết hát và thích nghe hát trống quân trong các dịp lễ tết, hội hè.

“Không khí lễ hội xưa và rất nhiều di tích cổ đã bị phá bỏ. Thế hệ chúng tôi chỉ được nghe kể lại và có chút tiếc nuối”, ông Trịnh Văn Tâm, trưởng thôn Xuân Giai, cho biết.

Xung quanh thành cổ là biết bao dấu tích vàng son một thời, là văn hóa truyền thống của người nông dân xứ Thanh, là những thanh âm vọng về từ hàng trăm năm lịch sử.

Chuyện thành Tây Đô bao phủ xung quanh những bức tường kỳ vĩ, gắn với biết bao huyền sử về một vương triều ngắn ngủi, tồn tại chỉ trong 7 năm (1400-1407). Sử cũ chép, vào năm 1397, trước mưu đồ xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài. Vùng đất được chọn có địa thế rất hiểm yếu, có đường đi từ Bắc vào Nam và sang Lào, xung quanh được án ngữ bởi nhiều ngọn núi cao, hai mặt Nam, Bắc có sông Mã và sông Bưởi chảy qua.

Thành Tây Đô ẩn chứa quá nhiều câu hỏi. Một trong những bí ẩn đó là đôi rồng đá bị mất đầu. Ban đầu, bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc có hai con rồng đá nằm song song. Nhưng khi nhà Hồ thất thủ, đôi rồng đá cũng mất tích luôn. Đến năm 1938, tượng rồng đầu tiên được một nông dân phát hiện khi đang cày ruộng trong thành. Nhưng, ai đã chặt đầu rồng? Người thì cho rằng, sau khi xâm lược được nước ta, quân Minh đã chặt đầu rồng, biểu tượng quyền lực của nhà Hồ để thể hiện sự diệt vong của vương triều này. Có người lại khẳng định do những người bất đồng chính kiến với nhà Hồ gây ra. Lại có ý kiến khác nhận định, thời kỳ mới chiếm đóng nước ta, người Pháp bắt dân trong vùng hàng tháng, hàng năm phải trải chiếu hoa trên con đường dẫn tới đôi rồng đá, dân bức xúc mà chặt đầu rồng. Thậm chí có cách lý giải rằng, có một thời kỳ làng Xuân Giai thường xuyên bị cháy nhà, người dân cho rằng do rồng quay đầu về làng mình phun lửa gây ra cháy nhà nên đã chặt đầu rồng. Đến nay, những lời giải ấy vẫn chưa thực sự thỏa đáng?!.

Làng cổ Xuân Giai

Những bí ẩn xung quanh Thành Nhà Hồ luôn khơi nguồn để các bạn trẻ tìm hiểu.

Ở làng còn có giếng cổ trong và ngọt, thường dùng để pha, ủ chè và nấu rượu rất thơm ngon, được Nhân dân cả vùng ưa thích. Các cụ già trong làng vẫn gọi, nước giếng làng là nước “đãi ngoại”, có nghĩa là đối với khách vãng lai hoặc những người từ những nơi khác đến định cư, dâu, rể của làng khi dùng nước giếng thì luôn mạnh khỏe, da dẻ hồng hào, đẹp đẽ. Còn đối với người dân, vào thời khắc giao thừa, họ kéo nhau đến giếng, thắp một tuần nhang cắm lên thành giếng, xin gánh một gánh, hay xô nước mang về nhà lấy lộc với mong muốn cầu mong cho gia đình bình an, khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt.

Và còn có những ngôi nhà cổ. Trong đó đáng chú ý nhất là nhà được ông Đề, một chức quan ở huyện dưới triều Nguyễn cho xây dựng năm thứ 7 đời vua Thành Thái (1895). Hiện nay chủ nhân của ngôi nhà là ông Trần Tuấn Đạt, đời thứ 4. Ngôi nhà này đã chứng kiến nhiều sự kiện của quê hương, đất nước. Trước năm 1945, vào những dịp quan trọng, trong nhà có người thi đỗ, đến tuổi khao lão hoặc mừng chức lý trưởng, gia đình mở lễ khao vọng, mời các chức sắc và dân làng đến tham dự. Sau năm 1954, ngôi nhà trở thành nơi sinh sống, chở che cho bao lớp cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra Bắc tập kết. Trong kháng chiến chống Mỹ, ngôi nhà vừa là nơi ở của bộ đội, vừa trở thành kho đạn dược, vũ khí và che giấu xe vận tải vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, thật đáng tiếc ngôi nhà đã bị sửa chữa, tôn tạo và làm mới.

Hiện nay, đôi rồng đá mất đầu vẫn được đặt ở Thành Nhà Hồ. Ngôi nhà ông Đạt vẫn còn đó nhưng đã phảng phất nét đẹp hiện đại. Giếng cổ không còn được dân làng sử dụng, lòng giếng cây dại, rêu mốc phủ kín bề mặt. Những đình, nghè, đền, chùa, văn chỉ cũng đã bị phá dỡ. Duy chỉ còn 2 cây thị có tuổi đời trên 600 năm vẫn ăn sâu bám rễ cùng đời sống của người dân, đồng thời đã được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây di sản.

"Thôn Xuân Giai hiện có 315 hộ với hơn 1.100 nhân khẩu. Khi chúng tôi họp dân, hầu hết những người lớn tuổi đều mong muốn xin lại đất chùa làng để sau đó kêu gọi bà con Nhân dân xây dựng, tôn tạo", ông trưởng thôn Trịnh Văn Tâm chia sẻ.

Giữa nhịp sống hiện đại, sự chậm rãi của bà con thôn Xuân Giai bên những thửa ruộng là nét đẹp không dễ gì có được, như một giai điệu du dương khiến du khách muốn tìm về với miền đất cố đô.

Bài viết có sử dụng tư liệu nghiên cứu “Không gian văn hóa Thành Nhà Hồ và di sản làng cổ vùng phụ cận” (Nguyễn Thị Thúy, Tạp chí VHNT số 356, tháng 2/2014).

Bài và ảnh: Kiều Huyền



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]