(vhds.baothanhhoa.vn) - Sông Mã - dòng sông “mẹ” không chỉ bồi tụ phù sa làm nên mỡ màu sự sống; mà từ “cái nôi” này, nhiều nền văn hóa cổ đã được dưỡng nuôi, để làm phong phú và giàu có thêm kho tàng di sản văn hóa vô giá của xứ Thanh. Một trong số đó phải kể đến văn hóa Đông Sơn - một đỉnh cao của văn minh Đại Việt!

Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Văn hóa Đông Sơn - một đỉnh cao của văn minh Đại Việt

Sông Mã - dòng sông “mẹ” không chỉ bồi tụ phù sa làm nên mỡ màu sự sống; mà từ “cái nôi” này, nhiều nền văn hóa cổ đã được dưỡng nuôi, để làm phong phú và giàu có thêm kho tàng di sản văn hóa vô giá của xứ Thanh. Một trong số đó phải kể đến văn hóa Đông Sơn - một đỉnh cao của văn minh Đại Việt!

Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Văn hóa Đông Sơn - một đỉnh cao của văn minh Đại Việt

Di chỉ khảo cổ học văn hóa Đông Sơn

Sự lắng đọng, kết tinh của một truyền thống lâu dài

Làng cổ Đông Sơn trầm mặc và hiền hòa soi mình bên dòng sông Mã suốt bao đời nay. Nhưng rồi bỗng một ngày, những hiện vật cổ được tìm thấy (năm 1924) từ ngôi làng này, đã đưa Đông Sơn trở thành biểu tượng của một trong những đỉnh cao văn minh Đại Việt: Nền văn hóa Đông Sơn.

Quá trình kỳ công khảo cổ, tìm tòi, nghiên cứu suốt một thế kỷ qua, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận định căn bản về niên đại, nguồn gốc, sự phổ biến và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của văn hóa Đông Sơn trong tiến trình lịch sử dân tộc. Theo đó, về niên đại tương đối nói chung, có thể xếp nền văn hoá này vào phạm trù của thời đại sắt sớm. Về niên đại tuyệt đối, qua nhiều phương pháp phân tích các nghiên cứu đã rút ra niên đại chung cho văn hoá Đông Sơn: mở đầu khoảng thế kỷ VIII trước Công nguyên và kết thúc vào thế kỷ II sau Công nguyên. Trong đó, niên đại Đông Sơn sớm từ thế kỷ VIII-VI trước Công nguyên, niên đại Đông Sơn điển hình từ thế kỷ V-III trước Công nguyên và niên đại Đông Sơn muộn từ thế kỷ II tước Công nguyên - thế kỷ II sau Công nguyên.

Trên hai trong ba địa bàn gốc của văn hoá Đông Sơn là vùng sông Hồng và sông Mã, hệ thống văn hoá khảo cổ đã được sắp xếp rất rõ ràng và được làm sáng tỏ. Trong đó, văn hoá Đông Sơn là giai đoạn phát triển cao nhất, giai đoạn phát triển tiếp theo và trực tiếp của chuỗi liên tục bao gồm văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn ở vùng sông Hồng và chuỗi văn hóa Cồn Chân Tiên - Bái Man - Đồng Ngầm - Quỳ Chữ - Đông Sơn ở vùng sông Mã. Mặc dù hệ thống di tích tập trung đậm đặc ở lưu vực các sông Mã, sông Hồng và sông Cả, nhưng kết quả thống kê ở 28 tỉnh/thành (cũ) cho thấy, trong khoảng 400 di tích, thì Thanh Hoá chiếm số lượng lớn nhất với 85 di tích.

Tại lưu vực sông Mã, sông Chu thuộc tỉnh Thanh Hóa, sự phân bố các di tích văn hoá Đông Sơn đặc biệt phong phú, với gần như đầy đủ các loại hình di tích như di chỉ cư trú, di chỉ cư trú - mộ táng, mộ táng, di chỉ - xưởng và các sưu tập ngẫu nhiên trên hầu hết các dạng địa hình và môi trường. Đáng chú ý, cụm di tích Đông Lĩnh gồm gò Mả Chùa, Cồn Cấu, Bái Tê, Xóm Rú..., tuy có niên đại muộn, tầng văn hoá mỏng, diện tích nhỏ, nhưng lại là những di chỉ - xưởng, một loại hình di tích hiếm gặp trong văn hoá Đông Sơn. Ngoài ra, cụm di tích Quỳ Chữ và di tích Thiệu Dương nổi bật bởi đây vừa là khu cư trú vừa là khu mộ táng của giai đoạn Tiền Đông Sơn tới Đông Sơn; cụm di tích Định Công phát hiện được nhiều trống đồng Đông Sơn...

Văn hóa Đông Sơn là sự tiếp nối, kế thừa từ truyền thống lâu dài của các nền văn hóa kế cận nhau. Tuy nhiên, văn hóa Đông Sơn không chỉ thừa hưởng một giai đoạn văn hóa kế cận, mà nó là kết quả của sự lắng đọng, kết tinh cả một truyền thống lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Khẳng định về vai trò và tầm quan trọng của văn hóa Đông Sơn trong tiến trình hình thành và phát triển của dân tộc, PGS.TS. Bùi Văn Liêm (Viện Khảo cổ học), cho rằng: “Trong lịch sử Việt Nam, vào thời kỳ Sơ sử - giai đoạn bản lề trong lịch sử - có 3 đỉnh cao văn hóa là văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc, văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung và văn hóa Đồng Nai ở miền Nam. Ở miền Bắc đây cũng là thời kỳ hình thành nên nhà nước sớm của các vua Hùng”.

Đặt nền móng cho sự ra đời nhà nước thời Hùng Vương

Trong suốt thời gian hình thành, tồn tại và phát triển, văn hóa Đông Sơn đã có những đóng góp rất lớn, cơ bản vào lịch sử dân tộc Việt Nam và là nền tảng cho sự hình thành nhà nước đầu tiên của người Việt cổ. Những tư liệu khảo cổ học và truyền thuyết còn ghi chép lại cho thấy, vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, xã hội có nhiều chuyển biến sâu sắc và toàn diện.

Văn hoá Đông Sơn đã đạt tới sự thống nhất cao trên một khu vực rộng lớn liền khoảnh, trong tất cả mọi loại hình, môi trường. Cư dân Đông Sơn đã làm chủ vững chắc được những vùng đất trũng, những vùng núi mà các giai đoạn văn hoá trước chưa vươn tới được. Trong xã hội Đông Sơn, kinh tế đã có bước nhảy vọt so với các giai đoạn trước. Các nghề thủ công luyện kim, làm gốm, chế tác đá, nghề mộc,... đã có sự chuyên môn hóa cao, đặc biệt là luyện kim đồng. Ngành luyện kim đồng phát triển rực rỡ cùng với sự ra đời của kỹ thuật luyện kim đen, đã tạo ra các công cụ sản xuất sắc bén như cuốc, lưỡi cày, rìu, dao gặt... Nhờ đó, nông nghiệp đã có được hiệu quả, năng suất lao động cao. Đặc biệt, sự chuyên môn hóa cao của các nghề thủ công và những người thợ thủ công, đã hình thành nên các trung tâm sản xuất thủ công. Tiêu biểu như khu đúc mũi tên đồng Đền Thượng, công xưởng chế tác khuyên tai đá Núi Sen, cụm công xưởng chế tác đồ trang sức Cồn Cấu - Bái Tê - Núi Nấp - Đông Lĩnh. Ngoài ra, sự phát triển của kinh tế cũng đã hình thành nên các khu định cư trung tâm như Làng Cả - Gò De (Phú Thọ), trung tâm Cổ Loa (Hà Nội), trung tâm Việt Khê (Hải Phòng), trung tâm Đông Sơn (Thanh Hóa), trung tâm Làng Vạc (Nghệ An),...

Thời kỳ phát triển của văn hóa Đông Sơn, xã hội đã trải qua nhiều chuyển biến sâu sắc và toàn diện. Chế độ hôn nhân đã chuyển từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ, tuy truyền thống mẫu hệ còn bảo tồn khá mạnh. Gia đình nhỏ và công xã nông thôn tồn tại phổ biến, trở thành nền tảng của xã hội. Kinh tế phát triển đã tạo ra sự dư thừa của cải và phân hóa xã hội ngày một sâu sắc. Những tư liệu mộ táng trong văn hóa Đông Sơn đã cho thấy rõ sự chênh lệch qua giá trị của các đồ tùy táng. Phân hóa giàu nghèo ngày càng phát triển dẫn đến sự hình thành một kết cấu xã hội làm tiền đề cho sự hình thành nhà nước.

Tư liệu khảo cổ cũng cho thấy những dấu tích của chiến tranh trong thời kỳ Đông Sơn. Đó là các loại vũ khí tăng lên về số lượng và loại hình, các kho vũ khí và xưởng sản xuất vũ khí đã được phát hiện. Tư liệu truyền thuyết và thư tịch cổ cũng cho thấy các cư dân Đông Sơn đã có nhiều cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, tổ chức tự vệ trước các thế lực từ phương Bắc. Từ đó hình thành nên các thủ lĩnh quân sự và sự liên minh giữa các bộ lạc, tộc người. Cùng với đó, vấn đề trị thủy cũng đã xuất hiện ở thời kỳ văn hóa Đông Sơn, do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước. Đây vốn là nền tảng cho xã hội phát triển nhưng lại chịu sự tác động và chi phối của các dòng sông. Do đó vấn đề trị thủy đòi hỏi phải có tổ chức và hệ thống để thực hiện. Ngoài ra, yếu tố giao lưu tiếp xúc rộng rãi với các văn hóa, nhà nước lân cận cũng góp phần thúc đẩy sự hình thành nhà nước sơ khai...

Những thành tựu rực rỡ kể trên đã đặt nền móng cho sự hình thành nhà nước thời Hùng Vương - nền tảng mở đầu cho sự hình thành và phát triển của các nhà nước phong kiến sau này. Để rồi, “Không gian văn hoá - lịch sử Hùng Vương” chính là vùng văn hoá cội nguồn của dân tộc Việt Nam – một vùng văn hoá chứa đựng sự độc bản (hay độc đáo), khẳng định bản sắc riêng của văn hóa Việt. Nhờ đó mà sau này, trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, những giá trị căn bản ấy không bị mất đi, không bị đồng hóa, mà vẫn tồn tại trong văn hóa Việt suốt thời kỳ phong kiến.

Khôi Nguyên

(Bài viết sử dụng các tư liệu trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Văn hóa Đông Sơn – 100 năm phát hiện, bảo tồn và phát huy giá trị”)

Tin liên quan:
  • Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Văn hóa Đông Sơn - một đỉnh cao của văn minh Đại Việt
    Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Hang Con Moong - “thư ...

    Trên bản đồ khảo cổ học Việt Nam, hang Con Moong có một dấu ấn đặc biệt. Bởi lẽ trong suốt hàng vạn năm, di chỉ khảo cổ này đã giữ trong lòng nó vô số lớp trầm tích văn hóa, có khả năng khắc họa nên bức tranh sống động về sự tồn tại của loài người.

  • Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Văn hóa Đông Sơn - một đỉnh cao của văn minh Đại Việt
    Những nền văn hóa cổ ở xứ Thanh - Hội tụ và tỏa sáng: Di chỉ Núi Đọ - Từ “dấu ...

    Vùng đất địa linh nhân kiệt xứ Thanh là nơi hội tụ đậm đặc các di tích khảo cổ từ thời tiền sử, với những “gương mặt văn hóa” rất tiêu biểu như di chỉ Núi Đọ, hang Con Moong, di chỉ văn hóa Hoa Lộc và đặc biệt là văn hóa Đông Sơn. Đáng quý hơn, các di tích đã và đang được chính quyền và người dân chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị. Qua đó, góp phần tạo nên sức mạnh nội sinh cho phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội địa phương.


Khôi Nguyên

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]