(vhds.baothanhhoa.vn) - Ở ngôi từ 1802 đến 1820, vua Gia Long (Nguyễn Ánh) quản lý đất nước trong bối cảnh xã hội không ít phức tạp, đặc biệt là lòng dân phân tán khi dân Bắc Hà vốn còn lưu luyến với nhà Lê và không ít người còn nhớ tới triều Tây Sơn. Giới sỹ phu, quan lại từng học hành đỗ đạt, làm việc cho triều đình nhà Lê còn nhiều cân nhắc và chưa sẵn sàng theo nhà Nguyễn. Tuy nhiên, với thời gian trị vì khá dài, những thành tựu của vua Gia Long để lại cho đương thời và hậu thế là khá lớn.

Vua Gia Long trên đất quý hương

Ở ngôi từ 1802 đến 1820, vua Gia Long (Nguyễn Ánh) quản lý đất nước trong bối cảnh xã hội không ít phức tạp, đặc biệt là lòng dân phân tán khi dân Bắc Hà vốn còn lưu luyến với nhà Lê và không ít người còn nhớ tới triều Tây Sơn. Giới sỹ phu, quan lại từng học hành đỗ đạt, làm việc cho triều đình nhà Lê còn nhiều cân nhắc và chưa sẵn sàng theo nhà Nguyễn. Tuy nhiên, với thời gian trị vì khá dài, những thành tựu của vua Gia Long để lại cho đương thời và hậu thế là khá lớn.

Vua Gia Long trên đất quý hương

Gia Miêu ngoại trang ở thị trấn Hà Long (Hà Trung).

Nơi phát tích vương triều nhà Nguyễn

Chỉ gần 45 ngày sau khi lên ngôi, vua Gia Long tới Thanh Hóa bèn ở ngay Bố Vệ, quý hương của các vị vua Lê Trung hưng, gặp gỡ những người họ Lê. Sau đó, xa giá đến Thăng Long, ra lời kêu gọi bổ dụng người họ Lê, duy trì cúng tế họ Trịnh và tự thân yết kiến miếu Lê Thái Tổ. Bởi, Thanh Hóa có đất quý hương (Hà Trung), có Gia Miêu Ngoại trang là quê hương của chúa Nguyễn Hoàng, gốc tích của dòng họ Nguyễn Gia Miêu và xứ Thanh, cũng là quê hương của nhiều bề tôi trung thành theo chúa Nguyễn vào mở cõi ở phương Nam trong những năm tháng khởi nghiệp gian truân nhất. Bên cạnh đó, vua Gia Long hiểu rằng, đất Thanh Hóa chính là hậu phương tin cậy của triều đại Lê - Trịnh.

Lần đầu đến Thanh Hóa, ngày Quý Sửu tháng 6 năm Nhâm Tuất (tức 13/7/1802), vua Gia Long “dạo xem hình thế núi sông rồi mời người già ở xã Bố Vệ (thuộc huyện Đông Sơn, nay là phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa) hỏi về sự tích cũ miếu nhà Lê. Những người dòng dõi họ Lê tranh nhau đem trâu rượu đến lạy mừng. Vua yên ủi rồi cho về”.

Nhân dịp này, nhà vua hoãn giao tô thuế cho trấn Thanh Hoa. Chiếu rằng: “Thanh Hoa là ấp thang mộc của trẫm. Nay mới khôi phục, nghĩ đất căn bản cần phải vỗ về nuôi nấng trước, nên đặc biệt chuẩn cho phàm binh giao tô thuế đều hoãn, gọi dân trở về để đều yên nghiệp làm ăn, cùng nhau hưởng phúc thái bình”.

Cùng với những nỗ lực trong củng cố quyền lực, xây dựng đất nước thì vua Gia Long cũng không quên dành sự quan tâm đặc biệt cho vùng đất gốc tổ Gia Miêu. Nhà vua cho đắp nền Phương Cơ, dựng lăng Trường Nguyên (lăng Triệu Tường) thờ Triệu Tổ ngay dưới chân núi Thiên Tôn. Đồng thời cho xây dựng khu miếu Triệu Tường (cách lăng Triệu Tường chừng hơn 1km) để thờ cúng tổ tiên; cho làm đình Gia Miêu để tri ân quê gốc. Cũng trong dịp này, nhà vua phong Gia Miêu Ngoại trang là đất quý hương, huyện Tống Sơn là quý huyện (nay là thị trấn Hà Long, huyện Hà Trung) để đời đời con cháu nhớ về tổ tông, dòng tộc. Theo sử sách ghi chép lại, ngoài vua Gia Long, còn có vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Thành Thái và Bảo Đại đã về Gia Miêu Ngoại trang tế bái tổ tiên.

Tâm niệm “Giữ việc thờ cúng nhà Lê là trọng điểm của triều đình”, năm 1805, dù mới ở ngôi 3 năm, vua Gia Long đã cho xây dựng miếu Bố Vệ (nay là Thái miếu nhà Hậu Lê) thờ các vua và hoàng hậu triều Hậu Lê ở làng Kiều Đại, xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn (nay thuộc phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa). Ngôi đền được xây dựng trên phần đất vốn là điện Chiêu Hòa - thờ Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh (vợ vua Lê Thái Tông, mẹ vua Lê Nhân Tông). Kiến trúc của đền Lê được xây dựng trên cơ sở của hai miếu được lập ra dưới triều Lê. Một miếu ở Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên (xã Xuân Lam cũ, nay là thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân); một miếu ở Thăng Long (Hà Nội) gọi là điện Hoàng Đức, hai miếu này dưới thời Tây Sơn bị tàn phá. Một mũi tên trúng 2 đích, vừa là liệu pháp tâm linh, vừa là biện pháp chính trị của nhà Nguyễn để an dân.

Bên cạnh đó, nhà Nguyễn cũng chú trọng việc xây lăng tẩm ở xã Vĩnh Hùng (Vĩnh Lộc), thờ các chúa Trịnh. Qua các đợt khảo sát, nghiên cứu di tích ở Thanh Hóa đã phát hiện, thống kê làm hồ sơ khoảng trên 50 di tích thờ các danh tướng phục vụ chính quyền Lê – Trịnh. Đường lối chính trị khôn ngoan ấy, góp phần tạo nên sự ổn định xã hội Đằng Ngoài, không gây sự hẫng hụt trong nếp sinh hoạt văn hóa tâm linh của Nhân dân.

Và chuyện chim Hạc "chỉ đường" dựng thành

Nhà Nguyễn còn chú trọng đến việc bảo vệ cơ quan “đầu não” cao cấp trấn - tỉnh. Hàng loạt các trấn, tỉnh, thành được xây dựng ngay từ những năm đầu nhà Nguyễn mới thành lập.

Tương truyền, trong giấc mơ, vua Gia Long thấy một người mặt mũi khôi ngô, tay dài quá gối, mình như mình hạc, vóc như vóc tiên, toàn thân áo quần trắng muốt tiến đến sụp lạy trước mặt vua, tâu: “Biết bệ hạ đang trăn trở tìm địa điểm dời thành Tư Phố, Thần Bạch Hạc phái tôi đến giúp bệ hạ việc này. Ngày mai khoảng giữa giờ Thìn, xin bệ hạ theo tôi định đất. Đó là nơi bền vững muôn đời, loạn có thể giữ, bình có thể trị, dẫu sau này có lần đổ nát nhưng lại hoàn như Châu về Hợp Phố”.

Tỉnh giấc, vua liền kể chuyện với các đại thần rồi truyền lệnh sẵn sàng xe ngựa chờ Thần linh ứng, giữa giờ Thìn, hễ có người mặc áo trắng đến lập tức phải đón vào bái kiến. Đúng giữa giờ Thìn thì từ trên không bất ngờ có tiếng chim vọng xuống, nhà vua cùng mọi người ngước nhìn lên trời thì thấy một con chim Hạc trắng to lớn khác thường, cứ bay lượn trước sân nhà vua ngự như có ý đợi chờ.

Nhà vua hiểu ra, liền lên xe. Chim Hạc kêu to mấy tiếng rồi bay đi trước, nhà vua cùng cận thần theo sau. Đến một vùng đất mới có rất nhiều đầm nước xanh biếc, chim Hạc ngừng cánh bay, hạ xuống trước xe nhà vua rồi gật gật đầu. Nhà vua chưa kịp mở lời thì chim Hạc đã vụt bay đi.

Nhà vua phóng tầm mắt bao quát khắp vùng, quả là nơi “sơn thủy, hữu tình”. “Núi sông như đặt bày trên đồng xôi bãi mật. Phía Đông có dãy Linh Trường và dãy Trường Lệ làm án. Tả có long sơn, long thuỷ, hữu có hổ phục, hổ chầu. Đây chính là vùng đất ta trông đợi bấy lâu nay”. Vui mừng khôn xiết, nhà vua chỉ tay xuống đất, dõng dạc bảo các quần thần: “Ta sẽ dựng thành ở chính nơi này. Tòa thành đó sẽ gọi là thành Chim Hạc”. Năm 1804, vua Gia Long hạ chiếu chỉ dời lỵ sở của trấn Thanh Hóa từ làng Dương Xá (xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa nay là phường Thiệu Dương, TP Thanh Hóa) về làng Thọ Hạc (huyện Đông Sơn nay là TP Thanh Hóa), đồng thời tiến hành xây dựng thành trấn lỵ, còn gọi Hạc Thành (thành Chim Hạc).

Chuyện “Đất lành, chim đậu”, về chim Hạc “chỉ đường” cho vua Gia Long hư thực thế nào không ai dám khẳng định, nhưng chắc chắn Thanh Hóa - vùng đất “địa linh nhân kiệt”, “sinh vua, sinh chúa” với những dấu ấn lịch sử luôn trường tồn cùng thời gian.

Bài và ảnh: KIỀU HUYỀN



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]