(vhds.baothanhhoa.vn) - Tảo hôn. Học sinh bỏ trường, bỏ lớp đi... “lấy chồng”, rồi lại làm bố, làm mẹ ở cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”. Giấc mơ đời, vì thế cứ quẩn quanh...

Non cao còn lời ru buồn? (Bài 1): “Giấc mơ hẹp”

Tảo hôn. Học sinh bỏ trường, bỏ lớp đi... “lấy chồng”, rồi lại làm bố, làm mẹ ở cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”. Giấc mơ đời, vì thế cứ quẩn quanh...

Non cao còn lời ru buồn? (Bài 1): “Giấc mơ hẹp”

Trường PTDT Bán trú THCS Trung Lý (Mường Lát) tổ chức cho học sinh thi bóng chuyền.

Chưa đủ tuổi kết hôn, vẫn "vượt rào"

Nhắc đến vấn đề tảo hôn của học sinh, Hiệu trưởng Trường PTDT bán trú THCS Phú Xuân (Quan Hóa), thầy giáo Nguyễn Danh Kiên bỗng thở dài. Sự bộc lộ cảm xúc ấy của ông, âu cũng dễ hiểu, bởi lẽ, “số học sinh ở độ tuổi từ 14 - 16 đi “lấy chồng” hàng năm là có nhưng cụ thể bao nhiêu thì khó thống kê vì học sinh sau khi ra trường hoặc đi học tiếp hoặc đi làm và có một số ít ở nhà,... vì vậy, việc nắm bắt thông tin cũng hạn chế”.

Tuy nhiên, theo như chia sẻ của hiệu trưởng Nguyễn Danh Kiên, gần đây nhất, trong năm học 2023 – 2024, học sinh P.Q.L., dân tộc Mông, sinh năm 2008, sinh con sau khi tốt nghiệp THCS 4 tháng. Khi đó, P.Q.L. mới 15 tuổi. Tiếp đó, học sinh H.P.U., sinh năm 2009, học xong lớp 8 cũng đi “lấy chồng” khi 14 tuổi. “Chồng” của H.P.U. hơn em 1 tuổi, học cùng trường. Do không đỗ tốt nghiệp THCS nên “chồng” H.P.U. đã bỏ học và ở nhà lấy “vợ”.

Sự việc xảy ra, các “ông chồng nhí”, “bà vợ nhí” và các bậc phụ huynh xem đó là điều bình thường, nhưng với những người đứng trên bục giảng thì đó là một dấu lặng. Đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số (DTTS) ở các bản làng vùng cao, biên giới, khu vực còn nhiều khó khăn, có 2 khoảng thời gian mà cán bộ, giáo viên thấp thỏm nhất đó là sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán và kỳ nghỉ hè. Sau những kỳ nghỉ này, nếu học sinh, nhất là học sinh nữ không trở lại trường theo đúng thời gian quy định thì có khả năng đã đi lấy chồng.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn ở vùng cao vẫn xảy ra có nhiều, có yếu tố khách quan, chủ quan, trong đó tác động lớn nhất vẫn là hạn chế về trình độ văn hóa, nhận thức. Đặt trong bối cảnh trường học, mặc dù đã có sự tuyên truyền bằng nhiều hình thức nhưng vẫn không ngăn được việc học sinh bỏ học đi “lấy chồng”. Công tác tại Trường PTDT bán trú THCS Trung Lý (Mường Lát), cô giáo Vũ Thị Minh Hồng đã chứng kiến không ít lần học sinh “vượt rào” để ra ngoài đi chơi đêm. Cô kể: “22h thầy, cô đi kiểm tra khu ký túc xá, học sinh vẫn còn ở phòng nhưng khoảng 24h đi kiểm tra lần nữa thì bắt gặp học sinh nhảy qua tường để đi chơi với bạn khác giới. Học sinh hứa không tái phạm, nhưng sau lại đâu vào đấy. Cũng có học sinh, thứ 7 tuần này vẫn đi học bình thường, không có biểu hiện gì nhưng thứ 2 tuần sau đã đi “lấy chồng, lấy vợ”.

Chỉ cần về với nhau là đủ?!

Là “chồng”, là “vợ” khi chưa đủ tuổi kết hôn, hay nói đúng hơn là những đứa con nít tự nguyện về ở với nhau bởi những suy nghĩ hãy còn non nớt, như chỉ đơn giản là thích nhau rồi tính chuyện “trăm năm”... Chẳng cần biết “trăm năm” ấy ra sao, buồn, vui thế nào, miễn sao cứ được về với nhau...

Non cao còn lời ru buồn? (Bài 1): “Giấc mơ hẹp”

L.T.M. làm mẹ khi mới 15 tuổi.

Như buổi chiều nắng gắt này, ở bản Khằm 2, xã Trung Lý (Mường Lát), “vợ chồng” S.T.G. và V.A.H. cùng đang dỗ dành con gái V.T.V. Năm nay, S.T.G. 18 tuổi còn V.A.H. 21 tuổi. Nhưng 2 năm trước đó, khi học xong lớp 9, S.T.G. đã bỏ học và về ở với V.A.H. Cả 2 là “vợ chồng” khi chưa đủ tuổi kết hôn. Con gái V.T.V. được sinh ra khi mẹ S.T.G. cũng mới 17 tuổi.

“Về với nhau vui không?”. V.A.H. gật đầu: “Cũng vui”. “Sao lấy nhau sớm thế?”. V.A.H. thẹn thùng, bẽn lẽn: “Thích thì lấy thôi, chứ không thích, không yêu là không có lấy”. “Về sớm thế lấy gì mà ăn?”. V.A.H. gãi đầu, cười bảo: “Thì cũng có 1 năm đi chăn lợn nhưng mệt quá nên nghỉ, giờ bố mẹ nuôi”. Và không chỉ nuôi mình V.A.H., bố mẹ còn nuôi cả con dâu, cháu nội. Gia đình con nít lại phải dựa vào gia đình người lớn. Nhưng V.A.H. cũng đang tính, rằng: “Sắp tới em sẽ đi làm, lo cho vợ, cho con. Chưa đẻ tiếp đâu, để con gái lớn lên chút nữa rồi tính”.

Là câu chuyện của “vợ chồng” L.T.M. và P.N., ở bản Na Pọng, xã Na Mèo (Quan Sơn). Học xong lớp 9, M. bỏ học đi làm cho một công ty điện tử ở tỉnh Bắc Ninh. Tình cờ, ở đây M. gặp N. Hai đứa quen nhau được 1 tháng thì M. có bầu. Khi đó, M. mới 15 tuổi còn N. 21 tuổi. Hai “vợ chồng” đã bỏ làm để về quê, sinh con. Từ đó đến nay đã gần 1 năm, sinh hoạt của gia đình M. chủ yếu nhờ vào ông bà nội. Con trai M. xanh xao. Bố chồng M., ông P.V.T. thở dài: “Chúng nó khổ lắm đấy. Chồng nó trước bị lừa sang Campuchia đi làm việc nhẹ lương cao, tôi chuộc 40 triệu về. Sau đó, nó ra tỉnh ngoài làm việc thì gặp con dâu tôi bây giờ. Con trai điện về xin phép, cho 2 đứa về ở với nhau. Biết làm sao được, thì cũng phải đồng ý chứ”.

Khi một bộ phận trong đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, nhất là dân tộc Mông đang còn nặng hủ tục trong hôn nhân, hạn chế về trình độ văn hóa và phương tiện đi lại, rào cản về ngôn ngữ thì việc tham gia các hoạt động tiếp cận kiến thức về hôn nhân, gia đình và pháp luật sẽ hạn chế. Đặc biệt, đối với phong tục cưới hỏi của đồng bào dân tộc Mông là không tổ chức ăn hỏi trước mà để đôi trẻ dẫn nhau về nhà trai rồi mới thực hiện các thủ tục ăn hỏi - cưới nên nhiều khi bố, mẹ bị động trong việc kết hôn của con cái... Vậy nên, tảo hôn, một hủ tục, đã và vẫn đang tiếp diễn...

Thẳng thắn nhìn nhận, tỷ lệ tảo hôn giảm từ 2,38% xuống còn 1,54% những năm qua là sự chuyển biến tích cực, cùng với đó là sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của các ban, ngành, đoàn thể... Tuy nhiên, trong công tác phòng, chống tảo hôn vẫn còn nhiều điều phải suy ngẫm...

Bài và ảnh: Bằng An



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]